Hi Jonicute. 2 trang mà bạn post là bàn về Floater va Inverse Floater. Floater = Floating rate bond. Cái này là derivative product. Floating rate bond co liên quan đến interest rate swap. Trong Interest rate swap, ta thường thấy người ta tráo đổi 1 luồng fixed cash flows (cash flow cố định) lấy 1 luồng floating cash flows (cash flows không cố định).
fixed cash flows = fixed rate * Principal Value
floating cash flows = Benchmark rate * Principal Value (Benchmark rate = LIBOR rate)
Swap về mặt bản chất, là một portfolio (tập hợp) của 1 fixed rate bond và 1 floating rate bond. 2 trang mà bạn post là nói về cái floating rate bond, gọi tắt là floater.
Nói về floater, tức là cash flows phụ thuộc vào lãi suất ngắn hạn của ngày mai. Ở đây là LIBOR rate. Nếu libor rate ngày mai cao thì cash flow sẽ cao và nếu libor rate ngày mai thấp thì cash flow ngày mai thấp. Đấy là 1 quan hệ đồng chiều giữa cash flow và interest rate. 1 bond có đặc tính như vậy gọi là floater.
Trong thực tế, người ta có thể muốn điều ngược lại, nếu ta đoán rằng libor rate sẽ xuống thấp mà vẫn muốn được coupon cao thì ta dùng inverse floater. Với inverse floater, lãi suất benchmark để tính coupon càng xuống thấp thì coupon càng cao. Nhưng như vậy, cũng có nghĩa là nếu lãi suất libor càng lên cao thì coupon được hưởng sẽ càng thấp. Cái này gọi là inverse floating. Trong thời kỳ khủng hoảng, credit crunch như hiện nay ở VN, các ngân hàng có xu hướng tăng mạnh lãi suất, mua inverse floater để đầu tư là coi như lỗ nặng.
Floater và inverse floater về bản chất, đều là trái phiếu (bond). 1 công ty hay 1 tổ chức phát hành trái phiếu là để huy động vốn cho 1 dự án. Bất kỳ 1 dự án đầu tư nào (xây dựng, cửa hàng, công thương,...) đều phải sinh lời để trả công cho chủ (shareholders) và người cho vay vốn (bondholders). Sinh lời của dự án này, ta có thể hiếu nó chính là collateral (thế chấp) để vay được vốn. Trong ví dụ của bạn, người ta giả sử 1 tổ chức phát hành cùng 1 lúc floater và inverse floater để vay vốn. Lãi suất để trả cho người mua 2 loại bond này được lấy từ 1 nguồn thu cố định có lãi suất là 7,5%, cái này gọi là Asset Backed Securities. Cái nguồn thu cố định này (fixed income bond) cũng là 1 dạng dự án đầu tư có lợi suất là 7,5%, và tiền thu được từ lợi suất 7,5% này phải trả cho các bondholders đã cho vay vốn để đầu tư.
Như vậy:
Cần trả cho floater bondholder: LIBOR + 1% ( interest rate càng lên cao thì bondholder càng hưởng lợi -> bản chất của floating rate bond)
Trả cho inverse floater bondholder: 14% - LIBOR (interest rate càng xuống thấp thì bondholder càng hưởng lợi và ngược lại).
Giả sử có 50% floater và 50% inverse floater, như vậy, tổng số lãi suất cần phải trả cho floater và inverse floater
= 0.5(LIBOR + 1%) + 0.5*(14% - LIBOR) = 7.5%
Như vậy, ta đã chia đều và đảm bảo tính cân bằng.
Vấn đề là LIBOR + 1% tiến đến vô cùng, và vượt quá 7.5% (vượt quá khả năng trả), nên cần phải đặt 1 giới hạn lên floater. Giới hạn lãi suất tối đa trả gọi là cap. Cap = 15%, tức là chỉ trả tối đa là 15% trên floater kể cả LIBOR vượt quá 14%.
Trên inverse floater, ta cũng thấy rằng 14% - LIBOR tiến đến < 0 khi LIBOR tăng cao. Về mặt ý nghĩa, khi 14% - LIBOR < 0 thì cũng nghĩa là ta yêu cầu bondholder phải trả tiền cho ta. Điều này là không có nghĩa nên phải đặt giới hạn,giới hạn nhỏ nhất này gọi là floor. Floor = 0%, nghĩa là khi LIBOr tăng cao quá 14% thì coi như không phải trả đồng nào.
Như vậy, floor = giới hạn dưới
cap = giới hạn trên.
Tổng hợp lại, ta vẫn có được cân bằng 7.5% chia đều.
Trong kinh tế, các điều kiện và trạng thái cân bằng là rất quan trọng; Điều này gọi là Non Arbitrage Principle.