Oạch! Joni lấy hai cái công thức này ở đâu ra thế?
Chắc cậu không download được sách mình chỉ, rõ ràng họ có phân biệt hai khái niệm này và hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau. Mình sẽ ngồi nhìn sách và gõ nguyên đoạn sách nói về nó để bạn xem. Bắt đầu từ trang 116 đến trang 118 sách nói về nó. Common Shareholder Equity và Net Worth là khác nhau!
Oái, ở trên bạn dùng từ Shareholder Equity? Theo ý bạn thì Shareholder Equity ở đây là gồm những gì? Nếu bạn nói Shareholder Equity là Common Shareholder Equity thì....hihi...sai nhé!
Sách viết như sau:
Investment Return
The relationship of profits earned to the shareholders' stated investment in a company is watched closely by the financial community. Analysts track several key measures that express the company's performance in relation to the owners' stake. Two of these, return on shareholders' investment and return on common equity, address the profitability of the total ownership investment, while the third, earnings per share, measures the proportional participation of each unit of investment in corporate earnings for the period.
Return on Equity (Shareholders' Investment)
The most common ratio used for measuring the return on the owners' investment is the relationship of net profit to equity, or total shareholders' investment. In performing this calculation, we don't have to make any adjustment for interest, because the net profit available for shareholders already has been properly reduced by interest charges, if any, paid to the creditors and lenders. Howerver, we do have to consider the impact of nonrecurring and unusual events, such as restructuring and major accounting changes and adjustments.
Net profit for purposes of this calculation is the residual result of operations and belongs totally to the holders of common and preferred equity shares. Within the shareholder group, only those holding common shares have a claim on the residual profit after obligatory preferred dividends have been paid.
Return on equity = Net Profit/ Shareholders' investment Sau đoạn này sách có lấy một ví dụ trường hợp họ phân tích một công ty tên TRW, và nhìn vào các phép toán họ thì phần mẫu số chính là tổng cộng toàn bộ "nguồn vốn chủ sở hữu" của bảng cân đối kế toán Việt Nam và họ dùng từ "shareholders' investment" để chỉ cho các khoản mục đó.
Tuy nhiên mình thấy có sự khác biệt về cách cấu trúc các bộ phận trong cơ cấu nguồn vốn chủ sở hữu của cân đối kế toán Việt Nam và Tây.
Cụ thể như sau:
(1) Trong cân đối kế toán Tây, cơ cấu các bộ phận của nguồn vốn chủ sở hữu như sau: + VỐN CỔ PHẦN CỔ ĐÔNG ƯU ĐÃI (preference stock)
+ VỐN CỔ PHẦN CỔ ĐÔNG PHỔ THÔNG (common stock)
+ CÁC NGUỒN VỐN CHỦ SỞ HỮU KHÁC (other capital) + LỢI NHUẬN GIỮ LẠI (retained earnings)
+ CÁC KHOẢN ĐIỀU CHỈNH TÍCH LUỸ (cumulative translation adjustment)
+ CỔ PHIẾU QUĨ (treasury share) ----------------------------------------------------------------- = TỔNG VỐN ĐẦU TƯ CỦA CHỦ SỞ HỮU (Shareholders' Investment)
(2) Trong cân đối kế toán Ta, cơ cấu các bộ phận của nguồn vốn chủ sở hữu như sau: + VỐN ĐIỀU LỆ (hoặc nhiều doanh nghiệp gọi là VỐN CỔ ĐÔNG PHỔ THÔNG)
+ CÁC QUĨ+ THẶNG DƯ VỐN CỔ PHẦN
+ LỢI NHUẬN CHƯA CHIA
+ CHÊNH LỆCH THAY ĐỔI TỶ GIÁ NGOẠI TỆ
+ CÁC ĐIỀU CHỈNH KHÁC ------------------------------------------------------------------ = VỐN CHỦ SỞ HỮU (hoặc nhiều báo cáo gọi là NGUỒN VỐN CHỦ SỞ HỮU)
Nhận xét của mình về sự khác biệt trong báo cáo nguồn vốn chủ sở hữu giữa hai báo cáo Ta và Tây: + Về cơ bản, và về bản chất vấn đề thì chúng đều là một, đều phản ánh các phần vốn thuộc về chủ sở hữu.
+ Về cấu trúc: Ta và Tây có khác nhau một chút xíu, Ta phân định rạch ròi quá nhiều các loại nguồn vốn quĩ, các khoản chênh lệch điều chỉnh, lý do là trong cơ cấu nguồn vốn chủ sở hữu của các công ty Việt Nam chưa phức tạp, cổ đông thì cũng mới chỉ có cổ đông phổ thông là chủ yếu, chưa có/hoặc hiếm mới có cổ đông ưu đãi được báo cáo ra. Còn Tây, họ tập chung phân định rạch ròi đối tượng sở hữu là cổ đông loại gì, cổ phiếu loại gì nhiều hơn, tất cả những thứ lằng nhằng như quĩ trích lập, chênh lệch nọ kia họ cho luôn vào một cái giọ gọi là "OTHER CAPITAL"- các nguồn vốn chủ sở hữu khác.
--> Về bản chất, Ta và Tây là như nhau nhưng mình chỉ muốn phân tích rõ hơn để tí nữa dẫn chứng việc tính ROE cho dễ hiểu. Sự khác nhau chính là cách gọi tên và sắp xếp các nguồn vốn khác còn lại ở phần chữ màu đỏ.
Theo mình thì cách gọi tên để thống nhất các bộ phận trong
"nguồn vốn chủ sở hữu" trên các báo cáo tài chính VN là chưa tốt! Tất cả phần
"nguồn vốn chủ sở hữu" của VN chính là
"Shareholders' Investment". Trong "Shareholders' Investment" sẽ có các mục nhỏ hơn đó là
"Vốn chủ sở hữu cổ đông phổ thông", "Vốn chủ sở hữu cổ đông ưu đãi", "Vốn khác thuộc chủ sở hữu"...
Vì có những cách gọi tên lẫn lộn như vậy của Việt Nam nên kéo theo việc một số người
tính sai chỉ số ROE cho mục đích sử dụng của mình. Theo lý thuyết thì ROE chỉ đơn giản là "lợi nhuận thuần/vốn chủ sở hữu" nhưng vấn đề ở chỗ cái mẫu số là toàn bộ "nguồn vốn chủ sở hữu" hay chỉ "vốn chủ sở hữu cổ đông phổ thông thôi". Mà thực tế thì lợi ích mang lại là mang lại cho cổ đông phổ thông, giá trị giao dịch ảnh hưởng tới công ty là giá trị của cổ phiếu phổ thông chứ cổ phiếu ưu đãi thì đâu có gây tác động gì? Do vậy mà nếu ta đổ đồng "nguồn vốn chủ sở hữu" là "vốn chủ sở hữu cổ đông phổ thông" là một thì ta đã đánh giá rất sai về ROE.
Mình đánh tiếp đoạn sách viết:
A possible accounting distortion must be mentioned here. Frequently, questions arise about the way a particular liability account on the balance sheet, "deferred taxes", should be handled in this analysis[/U]. Less frequently, there is even a deferred tax account on the asset side of the balance sheet. As we mentioned before, deferred taxes represent the accumulated difference between the accounting treatment and the tax treatment of a variety of revenue and expense elements. Essentially, they are tax payment deferred (or advanced) due to a timing difference in recognizing tax deductions allowable under prevailing IRS rules.
Some analysts argue that such liabilities should be treated as equity, while others argue that they represent a form of long-term debt. Since there is no consensus on the analystical treatment, deferred income taxes and longterm liabilities often are not included in any of the ratio calculations. However, because their combined accumulation on the liability side of the balance sheet mgiht be quite large, material difference can result depending on how they are considered in the calculations.
Đoạn trên có nói về việc nhà phân tích sẽ phân định và điều chỉnh lại các khoản là bộ phận cấu thành của "nguồn vốn chủ sở hữu", chủ yếu họ sẽ điều chỉnh khoản "thuế thu nhập hoãn lại". Mình cũng gặp một số báo cáo tài chính của Việt Nam có phần thuế thu nhập hoãn lại nằm trong mục vốn chủ sở hữu rồi! Nợ thuế thu nhập hoãn lại sẽ nằm trong phần Liabilities, tài sản thuế thu nhập hoãn lại sẽ nằm ở mục tài sản. Nhưng theo qui định GAAP thì khi các khoản nợ thuế thu nhập hoãn lại không thể được phục hồi trong tương lai thì nó sẽ được luân chuyển và xếp vào vốn chủ sở hữu, thuộc về vốn chủ sở hữu. (cái này nhờ các bạn học ACCA check giúp mình).
Nhà phân tích sẽ làm các nghiệp vụ điều chỉnh các khoản mà họ cho rằng nó đáng ra sẽ phải thuộc về nợ hoặc nguồn vốn rồi mới đặt bút tính chỉ số.
Câu hỏi mình đặt ra: Các chỉ số của Việt Nam trước khi tính toán đã có nghiệp vụ điều chỉnh nào cho phù hợp chưa? Đã loại đi phần cần loại và cộng vào phần cần cộng chưa? (Chưa thèm nói chuyện kiểm toán có đáng tin hay không?)
Lại đánh tiếp đoạn sách viết (sắp xong rồi) :004:
Return on Common Equity (ROE)
A somewhat more refined version of the calculation of return on the shareholders' investment is necessary if there are several types of stock outstanding, such as preferred stock in different forms. The goal is to develop a return based on earnings accruing to the holders of common shares only The net profit figure is first reduced by dividends paid to holders of prefered shares and by other obligatory payments, such as distributions to holders of minority interests. The total equity is likewise reduced by the stated amount of preferred equity and any minority elements, to arrive at the common equity figure.
Return on common equity = Net profit to common/ Common equity
Return on common equity is a widely published staticstic. Rankings of companies and industry sectors are compiled by major business magazines and rating agencies. The ratio is closely watched by stock market analyst and, in turn by management and the board of directors. Since the ratio focuses only on the ownership portion of the capital structure, however, the ROE of companies with widely different proportion of longterm debt in their capital structure is not directly comparable.
Tớ dịch nguyên xi đoạn này vì theo tớ nó quan trọng: Lợi nhuận trên vốn cổ đông phổ thông được sử dụng rộng rãi trong thống kê số liệu. Và được dùng trong việc xếp hạng công ty và so sánh với toàn ngành. Tỷ số này luôn luôn được các nhà phân tích trên thị trường chứng khoán cũng như các vị lãnh đạo, ban giám đốc doanh nghiệp quan tâm. Lý do là vì tỷ số chỉ tập chung vào phần vốn chủ sở hữu trong cấu trúc vốn, tuy nhiên một số công ty có tỷ trọng nợ dài hạn khác nhau trong cấu trúc vốn thì không thể so sánh trực tiếp được (ý nói nếu có nợ dài hạn do phát hành trái phiếu).
Câu hỏi đặt ra của tớ: ROE mà các nhà phân tích VN tính toán đã chỉ phản ánh phần vốn chủ sở hữu trong cấu trúc vốn hay chưa? Đã tính đúng bản chất vấn đề hay chưa?
Sách nó còn lảm nhảm thêm một vài ý nữa nhưng thôi ... buồn ngủ quá, tớ dừng ở đây!
Một vài câu hỏi đặt ra trước khi đi khò là :talk:
1/ Có phải ROE Việt Nam vẫn hay tính là họ tính theo công thức Return on equity = Net Profit/ Shareholders' investment hay không? Nhưng mình tự trả lời rằng: họ toàn tính thế thôi và đã bỏ qua đi một vài điều chỉnh nên khiến xộc xệch và sai lệch thông tin cần phản ánh.
2/ Phần các quĩ trong phần nguồn vốn chủ sở hữu báo cáo cân đối kế toán VN có đúng là tương ứng với phần "other capital" của Tây không? Nếu chúng là một và nếu trong cơ cấu vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp VN hoàn toàn không có cổ phiếu ưu đãi thì... OK Ta đã tính ROE chẳng may đúng vì nó rơi vào trường hợp đặc biệt.
Và xin thêm ý nữa: mình vừa đọc lại bài post trên saga và thấy rằng bạn này đang nói cái gì không đâu vào đâu, không ăn khớp gì cả. Phía dưới mục comment còn có thêm đồng chí japan.chuoi comment rất chi là không hiểu gì về phân tích kỹ thuật rằng "Em chưa hoàn toàn tin tưởng vào kiểm toán Việt Nam và số liệu của các công ty đưa ra. Do đó em vẫn nặng về phân tích tâm lý thị trường thay cho phân tích kỹ thuật. Nhưng em vẫn tin thời gian tới thị trường ổn định và có định hướng khi đó em sẽ tập chung vào phân tích kỹ thuật (nhưng tâm lý thị trường quan trọng không kém)"
Phân tích báo cáo tài chính chính là phân tích cơ bản, còn phân tích tâm lý dựa vào biểu đồ gọi là phân tích kỹ thuật. Đồng chí japan.chuoi này lại còn nhầm một cách chết người! Nguy hiểm!
Tóm lại, bài viết đó không có gì bàn! Mình sẽ bàn theo hướng của mình!