Đọc bài viết của các bạn, mình thấy có một số vấn đề muốn trao đổi thêm.
1. Quyền tự do xác định giá trong giao dịch là 1 trong số các quyền tự do kinh doanh của một nền kinh tế thị trường. Nhà nước VN tôn trọng quyền tự định giá và cạnh tranh về giá của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh theo đúng pháp luật (điều 2 Pháp lệnh giá).
Doanh nghiệp được bảo hộ quyền tự do định giá nếu không vi phạm các qui định của pháp luật. Ví dụ:
- Cấu kết với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác để liên kết độc quyền về giá, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác, của người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước;
- Bán phá giá hàng hoá, dịch vụ;
- Bịa đặt, loan tin không có căn cứ về việc tăng giá hoặc hạ giá gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác, của người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước;
- Định giá sai để lừa dối người tiêu dùng hoặc tổ chức, cá nhân hợp tác sản xuất, kinh doanh với mình;
- Tăng hoặc giảm giá giả tạo bằng cách thay đổi số lượng, chất lượng, địa điểm giao nhận hàng hoá, dịch vụ;
- Lợi dụng thiên tai, địch họa và diễn biến bất thường khác để đầu cơ tăng giá, ép giá;
- Các hành vi khác do pháp luật quy định.
(điều 28 Pháp lệnh giá)
- Giảm giá tối đa đối với hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại vưọt quá 50% giá hàng hoá, dịch vụ đó ngay trước thời gian khuyến mại.
(điều 6 Nghi định 37/2006/NĐ-CP)
2. Tuy nhiên, chúng ta thường quên mất một nguyên tắc khác: theo qui định của pháp luật thuế (quản lí thuế, GTGT, TTĐB, TNDN, XNK...), giá mua bán, xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ ghi nhận để xác định thuế phải đúng thực tế, phù hợp với giá giao dịch trên thị trường tại thời điểm phát sinh cũng như đảm bảo tuân thủ nguyên tắc thị trường trong định giá.
Như vậy, nếu doanh nghiệp không vi phạm các qui định của pháp luật về định giá (trừ pháp luật thuế) thì doanh nghiệp chẳng lo gì chuyện bị xử phạt do vi phạm pháp luật về quản lí giá (trừ pháp luật thuế).
Tuy nhiên, khi doanh nghiệp xác định nghĩa vụ thuế dựa vào các mức giá trái nguyên tắc số 2 thì có thể sẽ bị xử lí theo nhóm hành vi gian lận thuế.
VD1: Cty A (chuyên nhập khẩu hàng để bán buôn) nhập khẩu một lô hàng, kế toán xác định vốn là 1 tỷ đồng. Cty A bán lô hàng này cho Cty B (chuyên bán lẻ) với giá 1,21 tỷ đồng (bao gồm 0,11 tỷ đồng thuế GTGT).
Tuy nhiên, trên thị trường tại thời điểm phát sinh giao dịch này, với giao dịch giữa DN nhập khẩu và DN bán lẻ, với lô hàng tương tự, với các điều kiện khác tương tự, giá bán trung bình là 1,65 tỷ đồng (bao gồm 0,15 tỷ đồng thuế GTGT).
Như vậy, cơ quan thuế có quyền xác định lại doanh thu của Cty A là 1,5 tỷ, thuế GTGT hàng bán ra là 0,15 tỷ. Ngoài ra, cơ quan thuế còn có thể xử phạt Cty A. Tuy nhiên, 99,99%, Cty B không bị vấn đề gì về thuế đối với giao dịch mua hàng này => cơ quan thuế "khôn" quá nhỉ.
VD2: Cty X (đại lí cấp 2) mua vào một lô vải với giá 550 triệu đồng (bao gồm 50 triệu đồng thuế GTGT) từ Cty Y là đại lí cấp 1.
Tuy nhiên, trên thị trường tại thời điểm phát sinh giao dịch này, với 1 giao dịch giữa đại lí cấp 1 và đại lí cấp 2, với lô vải tương tự, với các điều kiện khác tương tự, giá bán trung bình chỉ là 330 triệu đồng (bao gồm 30 triệu đồng thuế GTGT).
Như vậy, cơ quan thuế có quyền xác định lại giá vốn lô vải của Cty X trên cơ sở 300 triệu đồng và có quyền chỉ chấp nhận cho khấu trừ 30 triệu đồng thuế GTGT. Đồng thời, Cty X cũng có thể bị phạt. Tuy nhiên, 99,99%, Cty Y thì chẳng bị vấn đề gì => một lần nữa, cơ quan thuế lại chơi "khôn".
Hy vọng với phân tích của tôi, các bạn có thể hiểu hơn về qui định của pháp luật cũng như cách xử lí của cơ quan thuế trong những vấn đề liên quan đến giá (nhưng chưa phải là tất cả đâu nhé)