Bạn nghiên cứu tại hướng dẫn này của TCT (Công văn số 3539/TCT-TNCN ngày 12 tháng 10 năm 2005) xem nhé:
Điểm 4.1 Mục III Thông tư 81/2004/TT-BTC ngày 13/8/2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 147/2004/NĐ-CP ngày 23/7/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao quy định: việc quyết toán thuế đối với thu nhập thường xuyên được thực hiện theo năm dương lịch. Do đó nếu người lao động nghỉ việc từ giữa năm đến hết năm không làm việc ở đâu nữa hoặc sau đó đi làm việc tiếp ở nơi khác sẽ thực hiện quyết toán thuế thu nhập như sau:Trường hợp người lao động nghỉ việc từ giữa năm, thời gian còn lại của năm nghỉ không làm việc, không có thu nhập: trong thời gian người lao động làm việc, cơ quan chi trả căn cứ vào tổng thu nhập chịu thuế hàng tháng của người lao động thực hiện khấu trừ tiền thuế theo biểu luỹ tiến từng phần quy định tại điều 10 Pháp lệnh số 14/2004/PL-UBTVQH11 ngày 24/3/2004 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Khi người lao động nghỉ việc, cơ quan chi trả cấp biên lai thuế thu nhập cho người lao động. Biên lai thuế là chứng từ chứng minh số thuế thu nhập người lao động đã được khấu trừ trong thời gian làm việc, là căn cứ xác định số thuế đã nộp khi quyết toán thuế năm. Trường hợp này cơ quan chi trả thu nhập không thực hiện quyết toán thuế trong thời gian làm việc như đề nghị của Công ty, mà cá nhân người lao động thực hiện việc quyết toán tại cơ quan thuế theo quy định tại Điểm 4.3.2 Mục III Thông tư số 81/2004/TT-BTC ngày 13/8/2004 của Bộ Tài chính. Người lao động không phải xin xác nhận về việc không có thu nhập trong thời gian nghỉ việc, mà tự kê khai và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Trường hợp người lao động nghỉ việc từ giữa năm, thời gian còn lại của năm làm việc tiếp ở nơi khác: đối với trường hợp này, cả hai cơ quan chi trả đều thực hiện khấu trừ thuế hàng tháng và cấp biên lai thuế cho người lao động như trường hợp trên. Các cơ quan chi trả không thực hiện quyết toán thuế mà người lao động phải thực hiện quyết toán thuế tại cơ quan thuế theo quy định tại Điểm 4.3.2 Mục III Thông tư số 81/2004/TT-BTC nêu trên.
Ví dụ:
- Từ 1/1 đến 31/8 năm 2005 ông A làm việc tại Công ty X, thu nhập hàng tháng là 6 tr.đ.
- Từ 1/9 đến 31/12 ông làm việc tại Công ty Y, thu nhập hàng tháng là 8 tr.đ.
Năm 2005 ông A quyết toán thuế thu nhập như sau:
- Tại Công ty A: hàng tháng Công ty thực hiện khấu trừ thuế theo biểu thuế luỹ tiến từng phần: (6 tr.đ- 5 tr.đ) x 10% = 100.000 đ.- Số thuế thu nhập Công ty phải khấu trừ trong 8 tháng của ông A là:
100.000 đ x 8 tháng = 800.000 đ.
Khi ông A nghỉ việc Công ty X cấp biên lai thuế (theo mẫu quy định) cho ông A để ông A thực hiện quyết toán thuế với cơ quan thuế.
Tương tự Công ty Y cũng thực hiện khấu trừ và cấp biên lai thuế cho ông A: số thuế Công ty Y phải khấu trừ trong thời gian ông A làm việc tại Công ty là: 1.200.000 đ.
Đến kỳ quyết toán thuế, ông A thực hiện quyết toán thuế theo quy định tại Điểm 4.3.2 Thông tư số 81/2004/TT-BTC ngày 13/8/2004 của Bộ Tài chính.