Kế toán là một môn khoa học phản ánh lại các diễn biến của nền kinh tế và của thị trường, đặc biệt là các diễn biến trên thị trường vốn. Vì vậy, khi thị trường diễn ra các giao dịch kinh tế mới hoặc có những động thái khác nhau trong xử lý kế toán, thị trường sẽ đòi hỏi các quy định và chuẩn mực kế toán vận động và phát triển.
Bài viết này phân tích và tổng hợp các sự kiện kinh tế có thể được cho là nguyên nhân dẫn đến những thay đổi trong chế độ kế toán Việt Nam trong thời gian gần đây. Bài viết đồng thời cũng giới thiệu phương pháp nghiên cứu kế toán đang đóng vai trò chủ đạo trên thế giới hiện nay “Lý thuyết kế toán thực chứng” (Positive Accounting Theory).
Theo định nghĩa chính thống của Hội Kế toán viên công chứng Mỹ (AICPA) [1], “kế toán là một quá trình ghi chép, đo lường và báo cáo các nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhằm giúp cho người sử dụng các thông tin kế toán có thể ra các quyết định kinh tế một cách phù hợp”. Như vậy, sản phẩm cuối cùng của một hệ thống kế toán là các báo cáo kế toán. Cụ thể trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến sản phẩm của kế toán tài chính là Báo cáo tài chính năm hay Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp niêm yết.
Báo cáo tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các đối tượng sử dụng. Nhà đầu tư sử dụng báo cáo tài chính cho quyết định mua hay không mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Cổ đông đọc thông tin tài chính trong báo cáo tài chính để ra quyết định giữ hay bán cổ phiếu. Cơ quan quản lý xem xét báo cáo tài chính cho mục đích quản lý thuế, quản lý và giám sát việc công bố thông tin kế toán, kiểm soát gian lận kế toán, đánh giá các điều kiện niêm yết, và còn nhiều mục đích khác nữa. Những người soạn thảo chuẩn mực và chế độ kế toán xem xét báo cáo tài chính trên góc độ sử dụng các chính sách kế toán của người lập ra các báo cáo tài chính với mục đích đưa ra các quy định và chuẩn mực phù hợp nhất nhằm đảm bảo tính phù hợp và tin cậy của thông tin kế toán. Người nghiên cứu và giảng dạy kế toán dùng báo cáo tài chính cho mục đích nghiên cứu và đưa ra các khuyến nghị cho các đối tượng sử dụng khác. Và cuối cùng, tất cả các đối tượng sử dụng báo cáo tài chính hay thông tin kế toán đều phải xem xét các thông tin này trong sự vận động của thị trường nhằm đánh giá tính phù hợp và tin cậy của chúng.
Thực tế thị trường quốc tế và sự vận động của kế toán
Khủng hoảng tài chính xảy ra cuối năm 2008 với giọt nước tràn ly là sự phá sản của Lehman Brothers đã tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó nước Mỹ, với vai trò dẫn đầu, chịu thiệt hại nặng nề nhất. Đồng thời, các vụ scandal kế toán lớn như gian lận kế toán tại Công ty Dịch vụ thuê ngoài Satyam, Ấn Độ với số tiền gian lận lên đến 01 tỷ USD [2]. Hay như công ty kiểm toán của “siêu lừa” Madoff chỉ có ba người, bao gồm cả giám đốc [3].
Trước diễn biến của cuộc khủng hoảng kinh tế lịch sử, Uỷ ban soạn thảo chuẩn mực kế toán Mỹ (FASB) và Uỷ ban chứng khoán Mỹ (SEC) đề xuất các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ chuyển sang áp dụng các chuẩn mực kế toán và các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IAS/IFRS) thay cho hệ thống chuẩn mực kế toán hiện hành tại Mỹ (US GAAP). Theo đề xuất này, các công ty niêm yết tại Mỹ có thể sẽ bị bắt buộc áp dụng IAS/IFRS kể từ niên độ kế toán 2014. Theo bản đề xuất, việc áp dụng IAS/IFRS sẽ tăng cường tính minh bạch và tính so sánh của báo cáo tài chính, đặc biệt đối với các công ty đa quốc gia với phạm vi hoạt động toàn cầu. Tuy nhiên theo điều tra của PriceWaterhouseCoopers (PWC), phần lớn các công ty niêm yết Mỹ vẫn chưa chú trọng đến công tác chuyển đổi, chỉ 24,3% các công ty bắt đầu xây dựng chương trình chuyển đổi từ năm 2009 [4].
Bài viết này phân tích và tổng hợp các sự kiện kinh tế có thể được cho là nguyên nhân dẫn đến những thay đổi trong chế độ kế toán Việt Nam trong thời gian gần đây. Bài viết đồng thời cũng giới thiệu phương pháp nghiên cứu kế toán đang đóng vai trò chủ đạo trên thế giới hiện nay “Lý thuyết kế toán thực chứng” (Positive Accounting Theory).
Theo định nghĩa chính thống của Hội Kế toán viên công chứng Mỹ (AICPA) [1], “kế toán là một quá trình ghi chép, đo lường và báo cáo các nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhằm giúp cho người sử dụng các thông tin kế toán có thể ra các quyết định kinh tế một cách phù hợp”. Như vậy, sản phẩm cuối cùng của một hệ thống kế toán là các báo cáo kế toán. Cụ thể trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến sản phẩm của kế toán tài chính là Báo cáo tài chính năm hay Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp niêm yết.
Báo cáo tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các đối tượng sử dụng. Nhà đầu tư sử dụng báo cáo tài chính cho quyết định mua hay không mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Cổ đông đọc thông tin tài chính trong báo cáo tài chính để ra quyết định giữ hay bán cổ phiếu. Cơ quan quản lý xem xét báo cáo tài chính cho mục đích quản lý thuế, quản lý và giám sát việc công bố thông tin kế toán, kiểm soát gian lận kế toán, đánh giá các điều kiện niêm yết, và còn nhiều mục đích khác nữa. Những người soạn thảo chuẩn mực và chế độ kế toán xem xét báo cáo tài chính trên góc độ sử dụng các chính sách kế toán của người lập ra các báo cáo tài chính với mục đích đưa ra các quy định và chuẩn mực phù hợp nhất nhằm đảm bảo tính phù hợp và tin cậy của thông tin kế toán. Người nghiên cứu và giảng dạy kế toán dùng báo cáo tài chính cho mục đích nghiên cứu và đưa ra các khuyến nghị cho các đối tượng sử dụng khác. Và cuối cùng, tất cả các đối tượng sử dụng báo cáo tài chính hay thông tin kế toán đều phải xem xét các thông tin này trong sự vận động của thị trường nhằm đánh giá tính phù hợp và tin cậy của chúng.
Thực tế thị trường quốc tế và sự vận động của kế toán
Khủng hoảng tài chính xảy ra cuối năm 2008 với giọt nước tràn ly là sự phá sản của Lehman Brothers đã tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó nước Mỹ, với vai trò dẫn đầu, chịu thiệt hại nặng nề nhất. Đồng thời, các vụ scandal kế toán lớn như gian lận kế toán tại Công ty Dịch vụ thuê ngoài Satyam, Ấn Độ với số tiền gian lận lên đến 01 tỷ USD [2]. Hay như công ty kiểm toán của “siêu lừa” Madoff chỉ có ba người, bao gồm cả giám đốc [3].
Trước diễn biến của cuộc khủng hoảng kinh tế lịch sử, Uỷ ban soạn thảo chuẩn mực kế toán Mỹ (FASB) và Uỷ ban chứng khoán Mỹ (SEC) đề xuất các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ chuyển sang áp dụng các chuẩn mực kế toán và các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IAS/IFRS) thay cho hệ thống chuẩn mực kế toán hiện hành tại Mỹ (US GAAP). Theo đề xuất này, các công ty niêm yết tại Mỹ có thể sẽ bị bắt buộc áp dụng IAS/IFRS kể từ niên độ kế toán 2014. Theo bản đề xuất, việc áp dụng IAS/IFRS sẽ tăng cường tính minh bạch và tính so sánh của báo cáo tài chính, đặc biệt đối với các công ty đa quốc gia với phạm vi hoạt động toàn cầu. Tuy nhiên theo điều tra của PriceWaterhouseCoopers (PWC), phần lớn các công ty niêm yết Mỹ vẫn chưa chú trọng đến công tác chuyển đổi, chỉ 24,3% các công ty bắt đầu xây dựng chương trình chuyển đổi từ năm 2009 [4].