Thực tế thị trường ảnh hưởng đến sự thay đổi trong kế toán (Phần 1)

  • Thread starter pipi134
  • Ngày gửi
pipi134

pipi134

Trung cấp
11/11/09
152
5
0
36
Sơn Tây
Kế toán là một môn khoa học phản ánh lại các diễn biến của nền kinh tế và của thị trường, đặc biệt là các diễn biến trên thị trường vốn. Vì vậy, khi thị trường diễn ra các giao dịch kinh tế mới hoặc có những động thái khác nhau trong xử lý kế toán, thị trường sẽ đòi hỏi các quy định và chuẩn mực kế toán vận động và phát triển.
Bài viết này phân tích và tổng hợp các sự kiện kinh tế có thể được cho là nguyên nhân dẫn đến những thay đổi trong chế độ kế toán Việt Nam trong thời gian gần đây. Bài viết đồng thời cũng giới thiệu phương pháp nghiên cứu kế toán đang đóng vai trò chủ đạo trên thế giới hiện nay “Lý thuyết kế toán thực chứng” (Positive Accounting Theory).
Theo định nghĩa chính thống của Hội Kế toán viên công chứng Mỹ (AICPA) [1], “kế toán là một quá trình ghi chép, đo lường và báo cáo các nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhằm giúp cho người sử dụng các thông tin kế toán có thể ra các quyết định kinh tế một cách phù hợp”. Như vậy, sản phẩm cuối cùng của một hệ thống kế toán là các báo cáo kế toán. Cụ thể trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến sản phẩm của kế toán tài chính là Báo cáo tài chính năm hay Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp niêm yết.
Báo cáo tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các đối tượng sử dụng. Nhà đầu tư sử dụng báo cáo tài chính cho quyết định mua hay không mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Cổ đông đọc thông tin tài chính trong báo cáo tài chính để ra quyết định giữ hay bán cổ phiếu. Cơ quan quản lý xem xét báo cáo tài chính cho mục đích quản lý thuế, quản lý và giám sát việc công bố thông tin kế toán, kiểm soát gian lận kế toán, đánh giá các điều kiện niêm yết, và còn nhiều mục đích khác nữa. Những người soạn thảo chuẩn mực và chế độ kế toán xem xét báo cáo tài chính trên góc độ sử dụng các chính sách kế toán của người lập ra các báo cáo tài chính với mục đích đưa ra các quy định và chuẩn mực phù hợp nhất nhằm đảm bảo tính phù hợp và tin cậy của thông tin kế toán. Người nghiên cứu và giảng dạy kế toán dùng báo cáo tài chính cho mục đích nghiên cứu và đưa ra các khuyến nghị cho các đối tượng sử dụng khác. Và cuối cùng, tất cả các đối tượng sử dụng báo cáo tài chính hay thông tin kế toán đều phải xem xét các thông tin này trong sự vận động của thị trường nhằm đánh giá tính phù hợp và tin cậy của chúng.
Thực tế thị trường quốc tế và sự vận động của kế toán
Khủng hoảng tài chính xảy ra cuối năm 2008 với giọt nước tràn ly là sự phá sản của Lehman Brothers đã tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó nước Mỹ, với vai trò dẫn đầu, chịu thiệt hại nặng nề nhất. Đồng thời, các vụ scandal kế toán lớn như gian lận kế toán tại Công ty Dịch vụ thuê ngoài Satyam, Ấn Độ với số tiền gian lận lên đến 01 tỷ USD [2]. Hay như công ty kiểm toán của “siêu lừa” Madoff chỉ có ba người, bao gồm cả giám đốc [3].
Trước diễn biến của cuộc khủng hoảng kinh tế lịch sử, Uỷ ban soạn thảo chuẩn mực kế toán Mỹ (FASB) và Uỷ ban chứng khoán Mỹ (SEC) đề xuất các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ chuyển sang áp dụng các chuẩn mực kế toán và các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IAS/IFRS) thay cho hệ thống chuẩn mực kế toán hiện hành tại Mỹ (US GAAP). Theo đề xuất này, các công ty niêm yết tại Mỹ có thể sẽ bị bắt buộc áp dụng IAS/IFRS kể từ niên độ kế toán 2014. Theo bản đề xuất, việc áp dụng IAS/IFRS sẽ tăng cường tính minh bạch và tính so sánh của báo cáo tài chính, đặc biệt đối với các công ty đa quốc gia với phạm vi hoạt động toàn cầu. Tuy nhiên theo điều tra của PriceWaterhouseCoopers (PWC), phần lớn các công ty niêm yết Mỹ vẫn chưa chú trọng đến công tác chuyển đổi, chỉ 24,3% các công ty bắt đầu xây dựng chương trình chuyển đổi từ năm 2009 [4].
 
Khóa học Quản trị dòng tiền
pipi134

pipi134

Trung cấp
11/11/09
152
5
0
36
Sơn Tây
phần cuối :Kế toán giá trị hợp lý và sự thay đổi ..
Kế toán giá trị hợp lý (Fair Value Accounting - FVA) được giới đầu tư Mỹ coi là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự sụp đổ của các ngân hàng Mỹ và khủng hoảng tài chính?
Dấu chấm hỏi (?) được đặt ra bởi vì chưa thực sự có nghiên cứu thực nghiệm nào chứng minh điều này. Hai giáo sư Laux và Leuz đang tiến hành nghiên cứu nhằm đánh giá tính hợp lý những “trách cứ” đối với kế toán giá trị hợp lý là nguyên nhân tạo ra khủng hoảng [5]. Và kết quả nghiên cứu hiện thời đang cho những kết luận “không” với câu hỏi trên.
Tuy nhiên, thực tế là kế toán giá trị hợp lý đang thay đổi. Tài sản của các ngân hàng Mỹ bao gồm rất nhiều khoản chứng khoán hoá (Securitization) các khoản cho vay mua nhà dưới chuẩn (Sub-prime Mortgage Loans). Khi bóng bóng nhà đất tại Mỹ xì hơi và vỡ vào giữa năm 2007, giá các chứng khoán này bị sụt giảm nghiêm trọng. Thậm chí, các khoản chứng khoán này còn có thể được đánh giá theo giá bán tháo (fire sale prices) bởi vì tính thanh khoản rất thấp. Các khoản chứng khoán này gần như không thể bán được trên thị trường vào đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng tài chính. Theo kế toán giá trị hợp lý, giá trị ghi sổ của các khoản chứng khoán này được đánh giá rất thấp (theo giá bán tháo), thậm chí thấp hơn so với giá trị nội tại của chúng (theo các mô hình định giá) bởi vì các quy định trong kế toán giá trị hợp tính đến tính thanh khoản khi định giá tài sản [6].
Thêm vào đó, các ngân hàng Mỹ dường như cố tình che dấu các thông tin liên quan đến giá hợp lý của các khoản chứng khoán này, như theo yêu cầu của IFRS 7 – Công cụ tài chính. Điều tra của PWC cho thấy hầu hết các ngân hàng tại Mỹ đã "không tự nguyện công bố bức tranh trung thực và sáng sủa về khả năng quản trị rủi ro tài chính của họ, mà chỉ nhằm mục đích đảm bảo yêu cầu tối thiểu của IFRS 7" [7]. Điều này tạo sức ép đối với FASB và SEC trong việc đưa ra các quy định mới về kế toán giá trị hợp lý. Ngày 10/10/2008, FASB ban hành chuẩn mực kế toán số FAS 157-3 quy định về xác định giá trị hợp lý của các tài sản khi thanh khoản thị trường thấp. Theo đó giá trị hợp lý của chứng khoán có thể định giá theo báo giá của các công ty môi giới chứng khoán. Cho dù quy định này có tính đến định giá theo các mô hình định giá nhưng định giá theo thị trường (Mark-to-Market) vẫn chiếm vai trò chủ đạo [8]. Và kết quả là Hiệp hội ngân hàng Mỹ (ABA) đã phản đối kịch liệt quy định này. ABA cho rằng FASB đã làm cho tình hình tồi tệ ngày càng xấu đi với quy định trình bày giá trị tài sản tài chính của ngân hàng với "giá bán tháo". Tuy nhiên, vào thời điểm đó Chủ tịch FASB cho rằng việc xác định giá trị hợp lý cần phải tính đến yếu tố thanh khoản và biến động của thị trường [9].
Cuối cùng, dưới tác động của rất nhiều phía, bao gồm cả các đối tượng được vận động hành lang, FASB đã phải thay đổi quy định về kế toán giá trị hợp lý. Theo đó, các doanh nghiệp, bao gồm cả ngân hàng, được phép định giá tài sản dựa trên các mô hình định giá do doanh nghiệp tự đưa ra, nhất là trong trường hợp chứng khoán có tính thanh khoản quá thấp. Một khi nguyên tắc kế toán được nới lỏng như thế, giới tài chính có thể thở phào nhẹ nhõm vì không còn phải lo chuyện tài sản bốc hơi từng ngày một khi thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh. Trước đây, họ phải chật vật tìm vốn để bù vào các khoản “trích lập dự phòng giảm giá chứng khoán” nếu không dễ rơi vào tình trạng phá sản như chơi [10].
Tại Việt Nam, một số ngân hàng đã manh nha áp dụng phương pháp định giá chứng khoán trên cho năm tài chính 2008, tuy chưa được chấp thuận. Và thời điểm kết thúc năm tài chính 2009 đã sắp tới, việc trích lập dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán ngày càng trở nên cấp thiết. Chúng ta thử tổng hợp lại những sự kiện có thể được cho là làm thay đổi các quy định kế toán tại Việt Nam gần đây.
 
pipi134

pipi134

Trung cấp
11/11/09
152
5
0
36
Sơn Tây
Có thể các bạn sinh viên chưa thấy việc cập nhật thông tin kinh tế là cần thiết. Nhưng khi bạn nắm rõ được biến động kinh tế, cập nhật thông tin thường xuyên, khi bạn ra trường, đi phỏng vấn, đó là 1 vốn kiến thức rất quý giá.
Crys sẽ post những bài viết tiêu biểu, giúp các bạn tiết kiệm thời gian tìm đọc, cập nhật thông tin. Hy vọng những thông tin này sẽ hữu ích cho các bạn.
bài đầu tiên, chúng ta sẽ nói về Lehman Brothers 1 sự kiện được đề cập nhiều nhất trong các bản tin tài chính những ngày gần đây.

Cái chết của Lehman dưới góc nhìn người trong cuộc

Cơn địa chấn mang tên Lehman Brothers, ngân hàng đầu tư lớn thứ tư của Mỹ mới tuyên bố phá sản, đi vào lịch sử bởi đại gia này là nạn nhân của chính mình chứ không phải ai khác. Dưới đây là bài viết của một người từng nhiều năm làm việc cho Lehman.
> Ngân hàng lớn thứ tư của Mỹ phá sản

Ngân hàng đầu tư là một định chế tài chính có mức độ rủi ro rất cao và kiếm tiền thông qua quản trị rủi ro. Rủi ro cao đối với lĩnh vực bất động sản trong bối cảnh một cuộc khủng hoảng tín dụng toàn diện và khốc liệt trong lịch sử là nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của đế chế tài chính già cỗi 158 năm tuổi Lehman Brothers.

Lehman - cũng như các ngân hàng đầu tư khác - đã sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitisation) để biến các khoản cho vay mua bất động sản thành các gói trái phiếu có gốc bất động sản đầy rủi ro cung cấp cho thị trường.

Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản vay mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các danh mục tín dụng bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia tăng thì việc phát mãi tài sản càng tăng làm giá bất động sản càng giảm. Điều này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của trái phiếu càng giảm và rủi ro tín dụng càng tăng.

Vòng xoáy khủng hoảng cứ tiếp tục như vậy, làm cho giá chứng khoán sụt giảm mạnh. Các ngân hàng đầu tư mặc dù không nắm giữ toàn bộ rủi ro nhưng cũng trực tiếp hoặc gián tiếp duy trì một số danh mục chứng khoán liên quan đến bất động sản. Hậu quả là hàng loạt ngân hàng đầu tư lần lượt báo cáo các khoản lỗ kinh doanh.
Một nữ nhân viên của Lehman Brothers để lại lưu bút trên bức chân dung CEO Dick Fuld. Vụ phá sản của Lehman là lớn nhất trong lịch sử. Ảnh: Reuters/TBKTVN

Lehman là một trong những ngân hàng đầu tư tham gia sâu vào hoạt động chứng khoán hóa tín dụng bất động sản. Được tách ra từ American Express năm 1994, Lehman đã xây dựng cho mình một thương hiệu mạnh về các sản phẩm có thu nhập cố định nói chung và trái phiếu nói riêng.

Sự dính líu sâu của Lehman vào lĩnh vực này là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến kết cục ngày hôm nay. Lehman đã lường trước được vấn đề và cố gắng không dính nhiều vào tín dụng bất động sản dưới chuẩn.

Trong số danh mục liên quan đến bất động sản khoảng 60 tỷ USD thì tín dụng bất động sản dưới chuẩn chiếm dưới 2 tỷ USD. Tuy nhiên, với sự lan rộng của khủng hoảng tín dụng mà tín dụng dưới chuẩn chỉ là mồi lửa ban đầu thì Lehman đã không kịp thoát.

Ngoài các gói trái phiếu liên quan đến bất động sản, Lehman còn đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp vào bất động sản thương mại. Lehman có thể cấu trúc các giao dịch này thông qua cung cấp vốn nợ hoặc vốn chủ sở hữu cho các công ty con hoặc liên doanh đầu tư bất động sản. Khi thị trường bất động sản đi xuống thì các giá trị bất động sản thương mại này cũng giảm theo.

Tại thời điểm cuối tháng 8, Lehman nắm danh mục khoảng 52 tỷ USD liên quan đến bất động sản, trong đó 24 tỷ USD chứng khoán bất động sản nhà ở, 17 tỷ USD chứng khoán bất động sản thương mại và 11 tỷ đầu tư trực tiếp. So với tương quan tổng tài sản khoảng 600 tỷ USD và vốn chủ khoảng 20 tỷ USD thì đây là một danh mục lớn.
 
pipi134

pipi134

Trung cấp
11/11/09
152
5
0
36
Sơn Tây
tập2 :
Giám đốc điều hành của Lehman, Dick Fuld, là người gắn bó tâm huyết với Lehman trong suốt 4 thập kỷ và là người chèo lái Lehman trong 14 năm qua. Vốn là người thận trọng, ông đã giúp Lehman vượt qua cuộc khủng hoảng năm 1998 với sự sụp đổ của quỹ đầu cơ “Long-Term Capital Management” - một khách hàng lớn của Lehman.

Chính cuộc khủng hoảng này đã giúp Lehman phát triển một chiến lược kinh doanh phù hợp cùng với một hệ thống quản trị rủi ro tốt nhất phố Wall. Tuy nhiên, sự bùng nổ kinh tế toàn cầu trong 3-4 năm gần đây cùng với chiến lược mở rộng đã làm Dick Fuld thay đổi chiến lược kinh doanh của Lehman sang các hoạt động rủi ro hơn, trong đó có bất động sản.

Cuộc khủng hoảng tín dụng đã làm hàng loạt tên tuổi đều rơi vào vòng xoáy chứ không chỉ có Lehman. Các ngân hàng UBS, Citi, Merrill Lynch, Bear Steans, Morgan Stanley, Freddie Mac, Fannie Mae đều gánh chịu các khoản lỗ nặng nề với tổng số lên tới hàng trăm tỷ USD. Số nhân viên sa thải tại các trung tâm tài chính lên tới hàng nghìn.

Ngay trước lúc Lehman hấp hối, hàng loạt các tên tuổi như Merrill Lynch, AIG, Washington Mutual cũng rơi vào tình trạng tương tự. Vậy tại sao chỉ có Lehman chịu cái chết thảm như vậy?

Chính cách thức giải quyết khủng hoảng thiếu sáng suốt và quyết đoán của Ban lãnh đạo Lehman đã đẩy Lehman vào thế chân tường. Vấn đề của Lehman không mới và đã được cảnh báo trong một thời gian dài. Trong 6 tháng gần đây, đã một vài lần tình hình của Lehman dậy sóng.

Lehman đã không ít hơn 3 lần bỏ qua cơ hội tự cứu mình. Cơ hội thứ nhất là cơ hội tăng vốn khi có thể làm dễ dàng. Sau khi Bear Steans thất thủ, Lehman đã tiến hành tăng vốn vào đầu tháng 4 để chuẩn bị cho cuộc chiến. Lehman đã huy động thêm 4 tỷ USD vốn thông qua phát hành cổ phiếu ưu đãi. Mặc dù tỷ lệ đăng ký mua cổ phiếu của nhà đầu tư rất cao, vượt xa số vốn 4 tỷ USD cần huy động song Lehman đã từ chối phát hành thêm vốn, cho rằng như thế đã đủ.

Cơ hội thứ hai cũng là cơ hội tăng vốn sau khi báo cáo kết quả quý 2 bị lỗ 2,8 tỷ USD. Đây là lần đầu tiên Lehman báo cáo kết quả kinh doanh lỗ từ khi niêm yết. Ngay lập tức, Lehman tiến hành huy động thêm 6 tỷ USD vốn trong đó có 4 tỷ USD cổ phiếu phổ thông và 2 tỷ USD cổ phiếu ưu đãi nhằm bù đắp số lỗ quý 2. Lần này tỷ lệ đăng ký mua cổ phiếu cũng rất cao song Lehman cũng từ chối không phát hành thêm, cho rằng thế là đủ.

Cơ hội thứ ba đến khi kết quả quý 3 chuẩn bị đến ngày công bố và thị trường đồn đoán số lỗ 4 tỷ USD. Lần này Lehman thực sự nhận ra sự nghiêm trọng và tiến hành tìm nhà đầu tư chiến lược để bán 25% ngân hàng. Đồng thời Lehman cũng đưa ra hàng loạt kế hoạch tái cơ cấu bao gồm bán một phần mảng quản lý tài sản để tăng tiền mặt, chia tách ngân hàng thành 2 công ty (spin off), công ty tốt và công ty xấu.

Dự kiến công ty xấu (bad bank) sẽ nắm giữ toàn bộ tài sản xấu liên quan đến bất động sản và không niêm yết nhằm tránh áp dụng kế toán giá trị hợp lý (fair value). Tuy nhiên, lúc này tình thế đã thay đổi và khó khăn hơn nhiều. Cuộc đàm phán với Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc (KDB) đáng lẽ ra có thể kết thúc song Lehman đã không làm được điều đó do sự bất đồng về giá.

Về khía cạnh này, Dick Fuld đã kém hơn John Thain, CEO của Merrill Lynch với thành tích “bán mình” cho BOA trong chỉ một ngày Chủ nhật. Lehman đã đánh mất cơ hội thứ ba, và cũng là cơ hội cuối cùng để tự cứu mình.
 
pipi134

pipi134

Trung cấp
11/11/09
152
5
0
36
Sơn Tây
tập3: Tổng hợp các bài viết phân tích về sự kiện kinh tế
Nhìn lại lịch sử 6 tháng qua, nhiều người sẽ hỏi tại sao FED cứu Bear Stearns bằng cách cung cấp 29 tỷ USD cho JP Morgan để mua, cứu Freddie Mac và Fannie Mae bằng cách tiếp quản trực tiếp, cứu AIG bằng việc tung ra 85 tỷ USD để mua 80% cổ phần. Và tại sao FED không làm như vậy với Lehman, để bank of America hoặc Barclays mua lại Lehman, mà để Lehman lại chết thảm như vậy?

Thời điểm Lehman chết rất bất lợi cho ngân hàng này. Lehman và Bear có nhiều điểm tương đồng vì đều là ngân hàng đầu tư, do đó việc cứu Bears mà không cứu Lehman có lẽ do vấn đề thời điểm.

Thứ nhất, sau khi Bear chết, Chính phủ Mỹ đã có dịch vụ cho vay chiết khấu dựa trên tài sản đảm bảo (discount window) nhằm cung cấp vốn cho ngân hàng đầu tư gặp khó khăn thanh khoản. Tuy nhiên cái chết của Lehman lại không phải là cái chết do thanh khoản, nên đặc ân này chưa có cơ hội sử dụng.

Thứ hai, Lehman nguy kịch đúng lúc đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng cùng Merrill Lynch, Wamu và AIG. Vấn đề “rủi ro đạo đức” (moral hazard) trở nên trầm trọng hơn hết, vì nếu cứu tất cả, Chính phủ sẽ tạo ra một tiền lệ rất xấu, khuyến khích các tập đoàn tham gia thêm các hoạt động rủi ro. Chính phủ muốn khối tư nhân hiểu rằng họ phải tự giải quyết vấn đề của chính họ. Cần phải có một sự hy sinh nào đó để thị trường hiểu được điều này.

Hơn nữa, thời điểm gần cuộc bầu cử ở Mỹ cũng rất nhạy cảm khi khủng hoảng tài chính trở thành đề tài tranh luận giữa 2 ứng cử viên tổng thống Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa. Việc dùng tiền thuế của dân đi giải cứu các tập đoàn tài chính cần một lý do thuyết phục cao. Sự hy sinh lúc này có lẽ là điều cần thiết cho thị trường? Chọn ai trong số này với chi phí thấp nhất cho xã hội?

Freddie Mac, Fannie Mae với tư cách là 2 tập đoàn hoạt động được Chính phủ bảo lãnh nhằm cung cấp tín dụng bất động sản cho người dân, do đó 2 tập đoàn này không thể chết. AIG là tập đoàn bảo hiểm lớn, cung cấp hàng triệu hợp đồng bảo hiểm cho người dân. Với số tài sản khổng lồ trên 1,000 tỷ USD, AIG có lẽ không phải là sự lựa chọn để cho phải hy sinh.
Sự lựa chọn tốt nhất của Chính phủ Mỹ là ép khối tư nhân phải tự cứu Lehman. Nếu không được, thì Lehman sẽ phải hy sinh. Có lẽ Chính phủ đã tính hết điều này thể hiện qua sự cứng rắn của FED và Bộ Tài Chính trong phiên họp cuối tuần qua nhằm tìm ra phương án giải cứu Lehman.

Ngoài 3 nhóm nhân tố trên, cái chết của Lehman còn do một phần sự tàn nhẫn của thị trường. Cổ phiếu Lehman đã bị bán khống. Các nhà đầu cơ bán khống (short sale) Lehman đặt cược với việc cổ phiếu sẽ giảm giá mạnh. Việc bán khống được thực hiện thông qua vay cổ phiếu để bán trước và mua quyền bán cổ phiếu (put option).

Tuy việc bán khống không có gì sai song nó chính là nguyên nhân tạo ra các tin đồn sai sự thật nhằm hạ giá cổ phiếu Lehman. Điều này làm mất lòng tin của thị trường vào Lehman và đẩy Lehman dần rơi vào thế bất lợi.
 
TAT

TAT

Thành viên Tình Nguyện
6/8/05
1,016
11
0
44
Làng Cà
Hay đấy, nhưng đang có người thắc mắc bác vi phạm bản quyền kìa!

Ô, ai thắc mắc vậy Mr Hùng?

Nedved là thành viên thân thiết của Webketoan (thời gian trước cũng đã là Mod của Webketoan). Hiện nay Nedved đang tham gia tích cực bên Web Kiểm Toán.

Nếu Mr Hùng coi link Nedved gửi là vi phạm bản quyền thì có lẽ là nhầm, bởi Nedved chỉ trích dẫn chứng bài viết của Pipi được copy từ Web Kiểm Toán qua mà thôi.

Nhân đây cũng nhắc nhở các bạn luôn: Tránh copy bài của người khác mà không có phần trích dẫn đi kèm.
 

Xem nhiều

Webketoan Zalo OA