OK, Vậy là không cần đợi qua weekend nữa :dzo:
Theo tôi thì cái ví dụ của bạn cottage sẽ được giải quyết như sau:
1) Đây không phải là fair value hedge, mà là cash flow hedge. Bởi vì Cty A dùng call option để tự bảo hiểm cho một giao dịch, một variable cash inflow trong tương lai, chống lại biến động về giá cà phê trên thị trường.
2) Theo FAS 149, thì lời lỗ từ long position in the call contract cho cái cash flow hedge này (giả định là cái call option này thoả mãn các tiêu chuẩn để được xác định là hedging instrument cho công ty A) phải được phân thành 2 phần:
a. Phần có hiệu quả tự bảo hiểm của call option sẽ ghi trên bảng tổng kết tài sản (giống như một dạng treo) dưới mục Other comprehensive income. Đây là một áp dụng nữa của matching principle trong kế toán: chỉ ghi nhận thu nhập/chi phí khi mà chi phí/thu nhập đi kèm thực sự phát sinh. Đối với hedging bằng cái call option này thì thu nhập/chi phí đi kèm chính là lời/lỗ thực tế khi Cty thực hiện giao lô cà phê vào tháng 1/2006. Nên nhớ là FAS 149, cũng như IAS không quy định chi tiết (tiếng Việt của tôi dạo này ẹ quá) thế nào thì gọi là có hiệu quả trong lời/lỗ của hợp đồng tự bảo hiểm mà để cho doanh nghiệp tự quy định trong chính sách quản lý rủi ro của mình. Giả sử Cty A tự quy định rằng với các hợp đồng quyền chọn (options) thì phần được sử dụng chính để bảo hiểm cho tài sản/công nợ hoặc các giao dịch trong tương lai là giá trị nội tại (intrinsic value) của hợp đồng quyền chọn, còn giá trị thời gian (time value) của hợp đồng quyền chọn chỉ là by-product (giống kiểu mua 1 tặng 1) khi tự bảo hiểm. Suy ra:
Phần lời lỗ có hiệu quả của call option trong đề bài = Tăng/giảm về giá trị nội tại của cái option đó tại ngày 31/12/2005 (t=1) so với thời điểm ngày 1/1/2005 (t=0)
= ($2100 - 1850) - 0 = $250 (lời). $250 này sẽ ghi vào Other comprehensive income trên Balance sheet (không phải income - nhấn mạnh)
Ghi chú:
- Tại thời điểm t=0, giá trị nội tại của HĐ quyền mua là 0 vì strike price ($1850) > giá thị trường tại thời điểm đó ($1800).
- Tại thời điểm t=1, giá trị nội tại của HĐ này = giá hiện tại của cà phê (31/12/05) - giá giao dịch của call option (strike price) = $2100 - $1850 = $250.
b. Như vậy thì phần lời/lỗ không có hiệu quả tự bảo hiểm của call option (ineffective portion of the gain/loss from hedging) = Lời/lỗ tịnh của call option - Phần lời/lỗ có hiệu quả = $150 - $250 = -$100 (lỗ). Phần lỗ $100 này sẽ được ghi ngay vào báo cáo thu nhập và mang tính chất của một chi phí. Đây là một ví dụ của cái mà tôi (mạo muội) gọi là "vẻ đẹp của kế toán". Bạn sẽ ngạc nhiên tại sao rõ ràng là call option đang có lãi, mà Cty A lại phải ghi nhận một khoản lỗ vào báo cáo thu nhập, còn phần lãi thì lại bị treo trên bản tổng kết tài sản. Câu trả lời là:
* Thứ nhất, khi chưa đến ngày giao hàng thật sự (1/2006) thì công ty A chưa thể biết được mình sẽ lời bao nhiêu từ hedging và lỗ bao nhiêu từ việc mua cà phê theo giá thị trường để đem giao. Nếu ghi lời từ call option ngay vào 31/12/05 thì sẽ không có matching expense và vi phạm matching principle. Đồng thời, Cty A nắm giữ call option chỉ nhằm tự bảo hiểm cho giao dịch bán cà phê vào tháng 1/2006, nếu ghi nhận ngay khoản lời từ call option tại thời điểm 31/12/05 ($150) vào thu nhập thì sẽ không đúng với bản chất kinh doanh của Cty và bản chất của việc nắm giữ hợp đồng quyền mua kia;
* Thứ hai, nếu bạn học tài chính thì cũng biết là một option sẽ có hai phần giá trị. Giá trị nội tại tăng giảm phụ thuộc vào biến động về giá của hàng hoá trên thị trường. Giá trị thời gian phụ thuộc vào khoảng thời gian từ hiện tại đến ngày hết hiệu lực của hợp đồng quyền chọn (T). Nếu T càng lớn thì xác suất người mua có lời từ option càng lớn, nên cùng với thời gian, giá trị thời gian của option sẽ giảm dần. Hiện tượng này trong thuật ngữ tài chính được gọi là Theta (chữ cái Hy lạp) hoặc time decay. Như vậy thì việc giá trị thời gian của option sẽ ngày một giảm chính là chi phí bất khả kháng của việc nắm giữ option (không phụ thuộc vào lời/lỗ của giao dịch trong tương lai). Và đây cũng chính là chi phí hàng năm của việc tự bảo hiểm bằng long a call option của Cty A. Vậy thì ghi nhận nó ngay như 1 chi phí là vô cùng hợp lý về mặt kế toán, phải không bạn ?
c. Đến thời điểm thực hiện giao dịch bán cà phê (ngày X nào đó trong thang 1/2006) thì lời lỗ có hiệu quả của call option tích luỹ trên bản tổng kết tài sản tính đến ngày X thang 1/2006 sẽ được reverse và đưa vào báo cáo thu nhập cùng với lỗ/lời từ giao dịch bán cà phê. Chênh lệch giữa hai phần lời/lỗ này nói lên tính hiệu quả của việc tự bảo hiểm.
Bút toán cho cái call option này vào ngày 31/12/2005 là:
Nợ (Dr.) TK-Chứng khoán phái sinh (trên bảng TKTS) $150
Nợ (Dr.) TK - Lời lỗ từ chứng khoán phái sinh (hoặc từ việc tự bảo hiểm) trên báo cáo thu nhập $100
Có (Cr.) - Other Comprehensive Income (bảng TKTS) $250
Hy vọng cái post này trả lời được thắc mắc của bạn. Hedge accounting là một vấn đề rất phức tạp, ngay cả giáo sư cũng phải mất nhiều thời gian để chắc chắn và nắm bắt cặn kẽ vấn đề. Mà tôi thì o phải giáo sư :biggrin: , nên có gì thiếu sót rất mong được trao đổi lại với bạn.
-----------------------------
GHI CHÚ: Nếu bạn muốn tự tìm hiểu về hedge accounting theo US GAAP thì có thể xem FAS 149 và FAS 133 ở trang web của FASB (
www.fasb.org)
http://www.fasb.org/st/index.shtml#fas149 http://www.fasb.org/st/index.shtml#fas133 Ở FAS 133 Appendix B sẽ có ví dụ cụ thể về từng loại hedge (cả 3 loại) cho bạn rất rõ ràng và thú vị
know: (tất nhiên là bạn phải chịu khó đọc tiếng Anh vậy )