nguồn: www.kiemtoan.com.vn Trong thực tế nhiều nghiệp vụ kinh tế phát sinh ở nhiều tình huống khác nhau kế toán chưa tìm ra cách định khoản hợp lý và phù hợp với chế độ quy định nên khi lập báo cáo tài chính và báo cáo thuế gặp rất nhiều khó khăn.
Về nghiệp vụ hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT).
Theo hướng dẫn của chế độ kế toán hiện hành, quy trình này hạch toán theo các bước:
- Khi doanh nghiệp lập và gửi bộ hồ sơ đề nghị hoàn thuế: Không định khoản.
- Khi doanh nghiệp nhận quyết định hoàn thuế của cơ quan thuế: Không định khoản.
- Khi doanh nghiệp xử lý xong quyết định của cơ quan thuế.
Phần được hoàn, chờ khi nào nhận được tiền hoàn thuế, ghi: Nợ 111, 112 Có 133 (1331, 1332). Phần không được hoàn, tính vào chi phí, ghi: Nợ 621, 641, 642, 632, 627, 142... Có 133 (1331, 1332).
Qua quy trình nghiệp vụ hoàn thuế, từ khi doanh nghiệp lập bộ hồ sơ đề nghị hoàn thuế đến khi nhận được tiền hoàn thuế ta thấy phải qua ba giai đoạn, mỗi giai đoạn cần thực hiện một số thủ tục (hồ sơ), ta có thể coi các hồ sơ này là một bộ chứng từ kế toán ghi nhận một nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh vì sau mỗi công đoạn, ý nghĩa của số thuế GTGT khác hẳn nhau. Khi doanh nghiệp chưa đề nghị hoàn (giai đoạn 1 chưa phát sinh) thì số thuế GTGT đầu vào này vẫn "còn được khấu trừ, còn được hoàn lại" (Luật thuế GTGT), nhưng khi doanh nghiệp đã đề nghị hoàn (giai đoạn 1 đã phát sinh) thì ý nghĩa của số thuế này hoàn toàn khác so với khi chưa đề nghị, lúc này cho dù doanh nghiệp chưa nhận được quyết định xử lý của cơ quan thuế và chưa nhận được tiền hoàn thuế thì nó cũng không được sử dụng để khấu trừ, hay tiếp tục đề nghị hoàn ở những kỳ sau. Như vậy số thuế đã đề nghị hoàn phải treo lại chờ cơ quan thuế ra quyết định mới được xử lý. Sau khi cơ quan thuế ra quyết định "không được hoàn" hoặc "được hoàn", doanh nghiệp mới được xử lý số thuế này. Phần không được hoàn tính vào chi phí, phần được hoàn doanh nghiệp làm thủ tục ra kho bạc nhận tiền (giai đoạn 3). Trong quy trình hạch toán này tồn tại hai bất hợp lý.
Thứ nhất, hai công đoạn đầu nếu ta không định khoản thì trên tài khoản 133(1331, 1332) tồn tại gộp cả "thuế còn được khấu trừ" và "thuế đã đề nghị hoàn không còn được khấu trừ" dễ dẫn đến sai lầm khi lập tờ khai thuế GTGT hoặc khi thực hiện khấu trừ thuế và đề nghị hoàn thuế ở những kỳ sau.
Thứ hai, khi kế toán lập bộ chứng từ đề nghị hoàn và khi nhận được quyết định được hoàn của cơ quan thuế mà không định khoản thì coi như đã bỏ sót chứng từ kế toán.
Phương pháp giải quyết: Theo chúng tôi để hạch toán được quy trình này ta cần mở thêm hai tài khoản chi tiết cho tài khoản 133:
-Tài khoản 1333 "Thuế GTGT đã đề nghị hoàn": Tài khoản này sử dụng để theo dõi thuế GTGT đã đề nghị hoàn. Trong đó:
Bên nợ: phản ánh số thuế GTGT đã đề nghị hoàn. Bên có: Phản ánh số thuế GTGT đã nhận được quyết định được hoàn lại, và số thuế GTGT nhận được quyết định không được hoàn phải tính vào chi phí.
+ Số dư cuối kỳ: Phản ánh số thuế đã đề nghị hoàn nhưng chưa nhận được quyết định xử lý của cơ quan thuế.
-Tài khoản 1334 "Thuế GTGT đã được hoàn phải thu": Tài khoản này theo dõi thuế GTGT đã nhận được quyết định được hoàn nhưng chưa nhận được tiền hoàn.
+ Bên nợ: phản ánh số thuế GTGT đã được hoàn theo quyết định
+ Bên có: Phản ánh số thuế GTGT đã nhận được tiền hoàn.
+ Số dư cuối kỳ: Phản ánh số thuế đã được hoàn nhưng chưa nhận được tiền.
Định khoản:
Khi doanh nghiệp lập bộ hồ sơ đề nghị hoàn thuế và gửi cho cơ quan thuế: Ta chuyển số thuế đề nghị hoàn từ 1331, 1332 sang tài khoản 1333 "Thuế GTGT đã đề nghị hoàn", ghi:
Nợ 1333 "Thuế GTGT đã đề nghị hoàn"; Có 1331, 1332.
Khi nhận được quyết định hoàn thuế, ta xử lý như sau: Phần không được hoàn do cơ quan thuế loại ra thì tính vào chi phí, ghi: Nợ 621, 627, 632, 641, 642, 142... Có 1333 "Thuế GTGT đã đề nghị hoàn". Phần được hoàn chuyển thành khoản thuế GTGT được hoàn phải thu, ghi: Nợ 1334 "thuế GTGT đã được hoàn phải thu"; Có 1333 "Thuế GTGT đã đề nghị hoàn". Khi nhận được tiền hoàn thuế, ghi: Nợ 111, 112; Có 1334" Thuế GTGT đã được hoàn phải thu".
Bạn xem bài
Một số bất cập về kế toán thuế GTGT và thuế TNDN