Hôm nay có 1 bài bên FB đưa lên một hoá đơn không có chữ ký Thủ Trưởng, và hoá đơn đóng dấu treo. Với stt : "Em tức điên chưa có cái đơn vị xuất hóa đơn nào mà nhưng chỗ này. Kế toán vỗ ngực xưng tên nói là họ xuất hóa đơn cho VNPT, cho Vietel ,,,,, toàn cty lớn, chỉ cần ký như vầy, gạch như vầy, đóng dấu như vầy là xong. Thậm chí còn bảo là có ngta hóa đơn mấy trăm triệu còn ko sao, đây có mấy triệu mà này nọ.
Em bị 3 hóa đơn và một số hóa đơn chưa lấy có lẽ cũng bị như vậy. Thiết nghĩ mình ngu thật, còn họ quá giỏi.
Anh chị cho em xin cái ý kiến, em chụp nguyên cái ý kiến đó gửi qua mail cho họ xem"
Và sau đó là nội dung mà bạn đó nói KTT đưa ra là hình này đây:
-
Tôi có viết bài cmt cho nội dung trên và copy về đây để mọi người đọc. Vì cái nội dung này thường gây lăn tăn rất nhiều.
Cái trích TT 39 nêu trên người ta nói về tiêu thức người bán hàng: " Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 16 Chương III Thông tư số 39/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định về Lập hóa đơn.
“d) Tiêu thức “ người bán hàng ( ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên )”
Trường hợp thủ trưởng đơn vị không ký vào tiêu thức người bán hàng thì phải có giấy ủy quyền của thủ trưởng đơn vị cho người trực tiếp bán ký ghi rõ họ tên trên hóa đơn và đóng dấu của tổ chức vào phía trên bên trái của tờ hóa đơn”
- Cái dẫn chứng cái chứng từ kế toán bên dứới lại nói về việc uỷ quyền ký ở chức danh thủ trưởng đơn vị. Đem so sánh 2 cái việc trớt quót với nhau để kết luận một chuyện được viện dẫn bằng 1 cái trớt quớt trước đó.
Không biết mọi người có đồng tình với tôi không nhưng tôi cảm thấy có khi các bạn biết nhiều thứ lắm nhưng có khi sử dụng đúng hay không thì phải tìm hiểu nghiền ngẩm. Chứ các bạn cứ nhầm lẫn cái này vào cái kia , mà khi trao đổi không thấy bản chất của sự khác biệt là chổ nào thì nói mãi cũng không ra.
Ví dụ trong phần viện dẫn về Chứng từ kế toán bên dưới sẽ cho thấy yêu cầu của luật kế toán yêu cầu chứng từ phải đầy đủ chữ ký. Hoá đơn là một loại chúng từ kế toán nên không được thiếu chữ ký nào. Và mục đích của người viện dẫn là : không được ký thiếu chữ ký nào; phải ký tên vào Thủ Trưởng đợn vị và đóng dấu lên chữ ký và ký đó là ký thừa uỷ quyền. ==> đây là một cách hiểu sai trường hợp áp dụng, cụ thể sai khi áp dụng vào hoá đơn. vì các lý do sau đây:
1. Hoá đơn là một loại chứng từ kế toán đặc biệt được điều chỉnh bằng văn bản pháp luật riêng biệt, do đó nó phải theo quy định của VBPL riêng biệt. Và đây là một điểm mà kế toán hay nhiều người có thể hiểu sai khi dịch chuyển toàn bộ quy định của chúng từ kế toán sang để sử dụng: đây là một trường hợp cụ thể; còn một trường hợp khác bị sai là sửa hoá đơn rồi đóng thủ trường đơn vị dấu lên đó ( cái này chúng từ kế toán thông thường thì đúng, nhưng hoá đơn có quy định riêng là không được tấy, xoá, sửa).
2. TT 39 theo điều viện dẫn trên đây :
"Trường hợp thủ trưởng đơn vị không ký vào tiêu thức người bán hàng thì phải có giấy ủy quyền của thủ trưởng đơn vị cho người trực tiếp bán ký ghi rõ họ tên trên hóa đơn và đóng dấu của tổ chức vào phía trên bên trái của tờ hóa đơn”.
Người ta nói rằng : "Trường hợp thủ trưởng đơn vị không ký vào tiêu thức người bán hàng" chứ Thông Tư không nói đến việc ký tên vào chỉ tiêu Thủ Trưởng đơn vị.
TT 39 không quy định chỉ tiêu Thủ Trưởng Đơn Vị là chỉ tiêu bắt buộc, mà là chỉ tiêu Người Bán Hàng mới bắt buộc ( người bán hàng chứ không phải nhân viên bán hàng).
3. Trong trích dẫn cái TT 07 gì đó về đóng dấu và ký thừa uỷ quyền, là đề cập đến viện thực hiện uỷ quyền như thế nào mới là hợp lệ cho ký thừa uỷ quyền, và nội dung đó nêu đó muốn nói đến việc ký uỷ quyền này chỉ được thực hiện từ Thử Trưởng cho cấp dưới trực tiếp ( mà người ta thường gọi là uỷ quyền xuống 1 cấp) thì đó là ký thừa uỷ quyền.
Toàn bộ cái mà KTT đưa ra là nội dung không sai gì hết. Chỉ có người đọc hiểu sai, vận dụng sai thôi
Theo quy định trên, trường hợp trên hóa đơn người bán hàng có chỉ tiêu người bán hàng. Công ty có ủy quyền cho nhân viên bán hàng ký vào chỉ tiêu người bán hàng và đóng dấu vào phía trên bên trái của tờ hóa đơn, chỉ tiêu thủ trưởng đơn vị để trống thì đó là hóa đơn hợp pháp.
Theo quy định của chính sách thuế hiện hành không có quy định bên mua phải có giấy ủy quyền của bên bán trong trường hợp này.
Chỉ có quy định : giấy uỷ quyền được lập và lưu tại Công ty
Like · Reply · 1 · 36 mins
Em bị 3 hóa đơn và một số hóa đơn chưa lấy có lẽ cũng bị như vậy. Thiết nghĩ mình ngu thật, còn họ quá giỏi.
Anh chị cho em xin cái ý kiến, em chụp nguyên cái ý kiến đó gửi qua mail cho họ xem"
Và sau đó là nội dung mà bạn đó nói KTT đưa ra là hình này đây:
Tôi có viết bài cmt cho nội dung trên và copy về đây để mọi người đọc. Vì cái nội dung này thường gây lăn tăn rất nhiều.
Cái trích TT 39 nêu trên người ta nói về tiêu thức người bán hàng: " Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 16 Chương III Thông tư số 39/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định về Lập hóa đơn.
“d) Tiêu thức “ người bán hàng ( ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên )”
Trường hợp thủ trưởng đơn vị không ký vào tiêu thức người bán hàng thì phải có giấy ủy quyền của thủ trưởng đơn vị cho người trực tiếp bán ký ghi rõ họ tên trên hóa đơn và đóng dấu của tổ chức vào phía trên bên trái của tờ hóa đơn”
- Cái dẫn chứng cái chứng từ kế toán bên dứới lại nói về việc uỷ quyền ký ở chức danh thủ trưởng đơn vị. Đem so sánh 2 cái việc trớt quót với nhau để kết luận một chuyện được viện dẫn bằng 1 cái trớt quớt trước đó.
Không biết mọi người có đồng tình với tôi không nhưng tôi cảm thấy có khi các bạn biết nhiều thứ lắm nhưng có khi sử dụng đúng hay không thì phải tìm hiểu nghiền ngẩm. Chứ các bạn cứ nhầm lẫn cái này vào cái kia , mà khi trao đổi không thấy bản chất của sự khác biệt là chổ nào thì nói mãi cũng không ra.
Ví dụ trong phần viện dẫn về Chứng từ kế toán bên dưới sẽ cho thấy yêu cầu của luật kế toán yêu cầu chứng từ phải đầy đủ chữ ký. Hoá đơn là một loại chúng từ kế toán nên không được thiếu chữ ký nào. Và mục đích của người viện dẫn là : không được ký thiếu chữ ký nào; phải ký tên vào Thủ Trưởng đợn vị và đóng dấu lên chữ ký và ký đó là ký thừa uỷ quyền. ==> đây là một cách hiểu sai trường hợp áp dụng, cụ thể sai khi áp dụng vào hoá đơn. vì các lý do sau đây:
1. Hoá đơn là một loại chứng từ kế toán đặc biệt được điều chỉnh bằng văn bản pháp luật riêng biệt, do đó nó phải theo quy định của VBPL riêng biệt. Và đây là một điểm mà kế toán hay nhiều người có thể hiểu sai khi dịch chuyển toàn bộ quy định của chúng từ kế toán sang để sử dụng: đây là một trường hợp cụ thể; còn một trường hợp khác bị sai là sửa hoá đơn rồi đóng thủ trường đơn vị dấu lên đó ( cái này chúng từ kế toán thông thường thì đúng, nhưng hoá đơn có quy định riêng là không được tấy, xoá, sửa).
2. TT 39 theo điều viện dẫn trên đây :
"Trường hợp thủ trưởng đơn vị không ký vào tiêu thức người bán hàng thì phải có giấy ủy quyền của thủ trưởng đơn vị cho người trực tiếp bán ký ghi rõ họ tên trên hóa đơn và đóng dấu của tổ chức vào phía trên bên trái của tờ hóa đơn”.
Người ta nói rằng : "Trường hợp thủ trưởng đơn vị không ký vào tiêu thức người bán hàng" chứ Thông Tư không nói đến việc ký tên vào chỉ tiêu Thủ Trưởng đơn vị.
TT 39 không quy định chỉ tiêu Thủ Trưởng Đơn Vị là chỉ tiêu bắt buộc, mà là chỉ tiêu Người Bán Hàng mới bắt buộc ( người bán hàng chứ không phải nhân viên bán hàng).
3. Trong trích dẫn cái TT 07 gì đó về đóng dấu và ký thừa uỷ quyền, là đề cập đến viện thực hiện uỷ quyền như thế nào mới là hợp lệ cho ký thừa uỷ quyền, và nội dung đó nêu đó muốn nói đến việc ký uỷ quyền này chỉ được thực hiện từ Thử Trưởng cho cấp dưới trực tiếp ( mà người ta thường gọi là uỷ quyền xuống 1 cấp) thì đó là ký thừa uỷ quyền.
Toàn bộ cái mà KTT đưa ra là nội dung không sai gì hết. Chỉ có người đọc hiểu sai, vận dụng sai thôi
Theo quy định trên, trường hợp trên hóa đơn người bán hàng có chỉ tiêu người bán hàng. Công ty có ủy quyền cho nhân viên bán hàng ký vào chỉ tiêu người bán hàng và đóng dấu vào phía trên bên trái của tờ hóa đơn, chỉ tiêu thủ trưởng đơn vị để trống thì đó là hóa đơn hợp pháp.
Theo quy định của chính sách thuế hiện hành không có quy định bên mua phải có giấy ủy quyền của bên bán trong trường hợp này.
Chỉ có quy định : giấy uỷ quyền được lập và lưu tại Công ty
Like · Reply · 1 · 36 mins