Audit Sampling

  • Thread starter kingh
  • Ngày gửi
K

kingh

Guest
7/11/03
63
0
0
Danang
Truy cập trang
Tôi đang nghiên cứu làm cái đề tài “chọn mẫu kiểm toán” trong nền kinh tế VN. Sao mà phức tạp quá!!!! thấy cái gì cũng rủi ro cả, cũng trọng yếu cả!!!. Chon mẫu thống kê, rồi phi thống kê cũng không thỏa mản. Chẳng lẻ phải làm 100% các nghiệp vụ hay sao???? mấy cha kiểm toán kêu là lảng phí lắm, không hiệu quả nếu làm 100% chứng từ!!!
Các bác nào có tài liệu gì về chọn mẫu kiểm toán có thể áp dụng trong nền kinh tế VN cho tôi biết với, tôi sẽ hậu tạ hậu tấn!.
 
Khóa học Quản trị dòng tiền
K

kingh

Guest
7/11/03
63
0
0
Danang
Truy cập trang
Tôi đang nghiên cứu làm cái đề tài “chọn mẫu kiểm toán” trong nền kinh tế VN. Sao mà phức tạp quá!!!! thấy cái gì cũng rủi ro cả, cũng trọng yếu cả!!!. Chon mẫu thống kê, rồi phi thống kê cũng không thỏa mản. Chẳng lẻ phải làm 100% các nghiệp vụ hay sao???? mấy cha kiểm toán kêu là lảng phí lắm, không hiệu quả nếu làm 100% chứng từ!!!
Các bác nào có tài liệu gì về chọn mẫu kiểm toán có thể áp dụng trong nền kinh tế VN cho tôi biết với, tôi sẽ hậu tạ hậu tấn!.
 
ketoan@

ketoan@

Thành viên Cố vấn - Webketoan Mentors
24/5/04
317
6
18
Bụi mận gai...
Có 1 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 530 về chọn mẫu kiểm toán đấy, Bạn đọc chưa? Nếu rồi, thì có giúp ích gì được cho bạn không? và ban còn cần những thông tin hay dẫn chứng gì thêm?
Còn nếu chưa thì..... chậc chậc... bạn cứ thử tìm đọc nó đi cái.
 
ketoan@

ketoan@

Thành viên Cố vấn - Webketoan Mentors
24/5/04
317
6
18
Bụi mận gai...
Có 1 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 530 về chọn mẫu kiểm toán đấy, Bạn đọc chưa? Nếu rồi, thì có giúp ích gì được cho bạn không? và ban còn cần những thông tin hay dẫn chứng gì thêm?
Còn nếu chưa thì..... chậc chậc... bạn cứ thử tìm đọc nó đi cái.
 
H

hong hot

Cao cấp
Cái đề tài của bạn nghe mới mẻ đấy, chọn mẫu kiểm toán trong nền kinh tế VN nghĩa là sao?.

Theo tôi biết thì chọn mẫu kiểm toán là một nguyên tắc kỹ thuật hành nghề kiểm toán nói chung trong đó nó bao gồm các phương pháp lấy mẫu như bạn đã nói, cái dó được kiẻm toán viên áp dụng trên toàn thế giới chứ làm gì có phân biệt lấy mẫu ở việt nam và ở nước ngoài?

Như @ nói, bạn thử nghiên cứu chuẩn mực kiểm toán VN xem rồi so sánh với ISA xem nó có khác gì nhau không?.

Việc không thỏa mãn như bạn nói theo tôi nghĩ đâu phải do phương pháp lấy mẫu mà hình như đó là kết quả kiểm tra các mẫu đã chọn đấy chứ? Thử hỏi KTV sẽ làm gì nếu các thủ tục kiểm toán đã được áp dụng đúng chuẩn mực mà vẫn không thỏa mãn, hay hài lòng về kết quả công việc đã thực hiện??.

Chọn mẫu 100% đâu có phải là kiểm toán dạng trâu bò, phương pháp chọn mẫu nào cũng có ưu nhược điểm của nó cả, bảo mấy anh chị KTV ấy là phải đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng chứ, tại sao lại không hiệu quả trong khi các phần tử trong tổng thể chỉ đếm trên đầu ngón tay (ví dụ như kiểm tra hóa đơn của tài sản cố định mua trong năm)

Đấy là vấn đề lý thuyết, còn thực tế các công ty kiểm toán bấy giờ chọn mẫu như nào thì có thánh biết, kể bạn chọn đề tài "thực hành kỹ thuật lấy mẫu tại công ty kiểm toán ABCXX" thì thú vị ra phết, nhỉ.
 
H

hong hot

Cao cấp
Cái đề tài của bạn nghe mới mẻ đấy, chọn mẫu kiểm toán trong nền kinh tế VN nghĩa là sao?.

Theo tôi biết thì chọn mẫu kiểm toán là một nguyên tắc kỹ thuật hành nghề kiểm toán nói chung trong đó nó bao gồm các phương pháp lấy mẫu như bạn đã nói, cái dó được kiẻm toán viên áp dụng trên toàn thế giới chứ làm gì có phân biệt lấy mẫu ở việt nam và ở nước ngoài?

Như @ nói, bạn thử nghiên cứu chuẩn mực kiểm toán VN xem rồi so sánh với ISA xem nó có khác gì nhau không?.

Việc không thỏa mãn như bạn nói theo tôi nghĩ đâu phải do phương pháp lấy mẫu mà hình như đó là kết quả kiểm tra các mẫu đã chọn đấy chứ? Thử hỏi KTV sẽ làm gì nếu các thủ tục kiểm toán đã được áp dụng đúng chuẩn mực mà vẫn không thỏa mãn, hay hài lòng về kết quả công việc đã thực hiện??.

Chọn mẫu 100% đâu có phải là kiểm toán dạng trâu bò, phương pháp chọn mẫu nào cũng có ưu nhược điểm của nó cả, bảo mấy anh chị KTV ấy là phải đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng chứ, tại sao lại không hiệu quả trong khi các phần tử trong tổng thể chỉ đếm trên đầu ngón tay (ví dụ như kiểm tra hóa đơn của tài sản cố định mua trong năm)

Đấy là vấn đề lý thuyết, còn thực tế các công ty kiểm toán bấy giờ chọn mẫu như nào thì có thánh biết, kể bạn chọn đề tài "thực hành kỹ thuật lấy mẫu tại công ty kiểm toán ABCXX" thì thú vị ra phết, nhỉ.
 
iso

iso

Guest
1/5/04
222
1
0
Hị hị, lần đầu tiên nghe thấy cái "Chọn mẫu kiểm toán trong nền kinh tế Việt Nam"
 
iso

iso

Guest
1/5/04
222
1
0
Hị hị, lần đầu tiên nghe thấy cái "Chọn mẫu kiểm toán trong nền kinh tế Việt Nam"
 
H

hong hot

Cao cấp
Nói về chọn mẫu kiểm toán nghĩa l* nói về việc các KTV thực hiện lựa chọn một số phần t* *t hơn 100% tổng thể để thực hiện các thủ tục kiểm toán trên các mẫu đã chọn rồi từ đó suy rộng cho tổng thể m* các mẫu l* đại diện v* hình thanh ý kiến của KTV về BCTC. Công việc kiểm toán hiện đại l* áp dụng cơ sở chọn mẫu để kiểm toán chứ không như công việc của các KTV l*m cách đây v*i trăm năm, việc chọn mẫu kiểm toán giúp công việc của KTV đảm bảo t*nh khoa học v* hiệu quả, đảm bảo cung cấp bằng chứng có t*nh thuyết phục cao phục vụ cho việc đánh giá của KTV v* cũng l* đảm bảo tuân thủ chuẩn mực nghề nghiệp.

Lý thuyết về chọn mẫu trong kiểm toán ho*n to*n áp dụng theo lý thuyết về xác suất thống kê. Theo đó, nếu dựa v*o t*nh chất của thủ tục lấy mẫu thì có 2 phương pháp l* lấy mẫu thống kê v* phi thống kê. VSA 530 định nghĩa lấy mẫu thống kê l* phương pháp m* các phần t* được lựa chọn ngẫu nhiên v*o mẫu v* s* dụng lý thuyết xác suất thống kê để đánh giá, suy rộng cho tổng thể. còn phương pháp phi thống kê l* không có một hoặc cả hai t*nh chất của phương pháp thống kê. Nếu dựa t*nh đại diện của mẫu cho tổng thể thì có thể có lấy mẫu đại diện v* lấy mẫu phi đại diện, trong đó lấy mẫu đại diện l* phương pháp lựa chọn các mẫu thuộc về các nhóm có t*nh chất chủ yếu trong tổng thể m* từ đó, KTV có thể suy rộng từ đại diện cho tổng thể. còn lấy mẫu phi đại diện l* phương pháp m* kết quả l* số mẫu đã chọn chỉ specific cho bản thân phần t* được lựa chọn, nó không mang t*nh chất của các nhóm chủ yếu trong tổng thể v* không s* dụng kết quả kiểm tra mẫu đó để suy rộng cho tổng thể.

Các tiêu thức phân loại v* tên gọi của các thủ tục trong chuẩn mực kiểm toán cũng chỉ dựa v*o lý thuyết trên để có những hướng dẫn cụ thể hơn nhằm trợ giúp KTV dễ thực hiện hơn trong từng trường hợp cụ thể. Hiện nay, ở VN, các công ty kiểm toán cũng thực hiện kiểm toán BCTC thông thường trên cơ sở chọn mẫu v* cũng có các kỹ thu*t lấy mẫu giống nhau mặc dù cách thức hoặc kỹ thu*t có thể khác nhau.

KTV khi quyết định s* dụng phương pháp, kỹ thu*t lựa chọn phần t* để kiểm tra thì phải xem xét t*nh chất, đặc điểm của tổng thể cũng như kinh nghiệm, hiểu biết của KTV về hoạt động kinh doanh của khách h*ng, từ đó có thể kiểm tra to*n bộ 100%, kiểm tra một số phần t* đặc biệt v* chọn mẫu kiểm tra. Việc chọn 100% phần t* áp dụng phù hợp với trường hợp giá trị tổng thể lớn nhưng số phần t* thấp (v* dụ như kiểm tra việc mua sắm t*i sản cố định, các khoản đầu tư...) nếu áp dụng phương pháp n*y sẽ có được mức đảm bảo rất cao v* khối lượng công việc chưa chắc đã nhiều hơn so với thực hiện kiểm tra chọn mẫu hoặc mặc dù số phần t* nhiều nhưng do điều kiện áp dụng kỹ thu*t hiện đại nên việc kiểm tra 100% vẫn đảm bảo hiệu quả của công việc kiểm toán. ngo*i ra, việc lấy 100% đôi khi cũng được áp dụng khi đánh giá của KTV về rủi ro tiềm t*ng v* kiểm soát quá cao nên phải tăng cường mức độ kiểm tra chi tiết để có được mức rủi ro phát hiện chấp nh*n được. Một số trường hợp khi có sự thỏa thu*n về cách thức thực hiện trong hợp đồng kiểm toán cũng yêu cầu KTV kiểm tra 100% phần t* của một khoản mục, một thông tin n*o đó. KTV cũng có thể lựa chọn một số phần t* đặc biệt trong tổng thể để phục vụ cho một mục đ*ch đặc biệt n*o đó (v* dụ như để đảm bảo thủ tục kiểm soát đã được thực hiện thì KTV chỉ lựa chọn các phần t* m* ở đó thủ tục kiểm soát đó yêu cầu phải thực hiện hoặc KTV có nh*n định về các rủi ro cụ thể ở một số loại nghiệp vụ như nghiệp vụ bất thường, các bút toán điều chỉnh, các phần t* có giá trị âm...). việc lựa chọn các phần t* đặc biệt chỉ cung cấp cho kiểm toán viên mức độ đảm bảo về các phần t* đó hoặc một số mục tiêu kiểm soát nhất định chứ không đại diện cho tổng thể. Cuối cùng l* lấy mấu kiểm toán theo các kỹ thu*t như đã đề c*p ở trên.

Ở các công ty kiểm toán của ta hiện nay, việc kiểm tra cũng được kết hợp giữa các phương pháp, kỹ thu*t trong đó bao gồm cả chọn 100%, chọn các phần từ đặc biệt v* lấy mẫu kiểm tóan. các KTV có kinh nghiệm thì thường kiểm tra các phần t* m* theo kinh nghiệm v* xét đoán của họ thì ở đó có thể chứa đựng nhiều sai sót. Việc chọn mẫu kiểm toán cũng được áp dụng nhưng có lẽ chủ yếu l* phi thống kê vì KTV không đánh giá v* suy rộng cũng như t*nh toán ảnh hưởng của phương pháp lấy mẫu đến sai sót ước t*nh cho tổng thể, nguyên nhân l* kỹ thu*t còn hạn chế v* khả năng thuyết phục với khách h*ng thường không cao. Việc lựa chọn ngẫu nhiên cũng còn nhiều vấn đề phải b*n lu*n, v* dụ một KTV có thể thay đổi một mẫu n*o đó trong t*p mẫu của anh ta chỉ bằng thay đổi một cái starting point vì tất cả các phần t* đều có cơ hội được lựa chọn v* starting point l* random creation. Một số nơi, việc chọn mẫu ho*n to*n do máy t*nh thực hiện theo nguyên tắc m* KTV chỉ định cho máy t*nh thực hiện nhưng việc n*y đòi hỏi tổng thể phải đáp ứng được yêu cầu của phần mềm của KTV, thông qua phần mềm n*y, máy t*nh cũng tự động ước t*nh sai sót trong tổng thể trên cơ sở kỹ thu*t lấy mẫu được chỉ định từ trước.

Liên quan đến vấn đề chọn mẫu kiểm toán, có một số lưu ý để KTV áp dụng trong thực h*nh.

- Cơ sở chọn mẫu bao giờ cũng sinh ra rủi ro lấy mẫu. đây ch*nh l* rủi ro m* có sai sót trọng yếu ở ngo*i phạm vi lấy mẫu. cái vấn đề n*y theo tôi thì may hơn khôn v* nó tồn tại một cách tất yếu bởi bản chất của phương pháp.
- Nếu đã chọn mẫu rồi m* KTV có năng lực hạn chế thì đó l* rủi ro ngo*i lấy mẫu. Rủi ro n*y liên quan trực tiếp đến năng lực của KTV chứ không liên quan đến phương pháp, kỹ thu*t chọn mẫu vì sai sót nằm trong ch*nh cái mẫu m* KTV đã kiểm tra.
- Xác định t*nh chất của tổng thể một cách phù hợp. Một tổng thể, nếu có sai sót thì có thể sai sót đó l* cao hơn hoặc thấp hơn thực tế, theo đó, việc xác định hướng kiểm tra v* nguồn tiếp c*n t*i liệu l* quan trọng để có thể phát hiện được các sai sót thừa hoặc thiếu n*y.
- TÍnh đầy đủ của tổng thể. một khoản mục được kiểm toán trên BCTC l* giá trị tiền tệ còn tổng thể của khoản mục đó có thể không l* tiền tệ nên cần thiết phải có thủ tục kiểm tra đảm bảo tổng thể đó đã đầy đủ để cover to*n bộ chỉ tiêu trên BCTC.
- Nếu KTV áp dụng phương pháp kiểm tra các phần t* đặc biệt thì phần còn lại của tổng thể phải được thực hiện kiểm tra bằng phương pháp chọn mẫu phù hợp trừ khi phần còn lại đó l* không trọng yếu.

Hiện nay trên thế giới, phương pháp lựa chọn phần t* để kiểm tra thường thiên về lựa chọn các phần t* đặc biệt (theo số lớn) để đảm bảo cho một tỷ lệ n*o đó của tổng thể rồi áp dụng phương pháp chọn mẫu để thực hiện đối với phần còn lại. theo quy định của hãng, việc tuân thủ các nguyên tắc chọn mẫu v* đánh giá kết quả được tuân thủ hết sức nghiêm ngặt vì đây ch*nh l* vũ kh* của kiểm toán viên, cũng như khái niệm về phạm vi kiểm toán v* trọng yếu v*y.
 
K

kingh

Guest
7/11/03
63
0
0
Danang
Truy cập trang
Th*nh th*t cảm ơn các bác nhiều!
Tuy nhiên, tôi vẫn thấy các ý kiến của các bác còn lý thuyết quá!. Nghe đâu, mỗi công ty kiểm toán của nước ngo*i đều có phương pháp chọn mẫu riêng của mình (v* PPháp đó được đặt tên riêng, vdụ: “Audit touchs programming”, “Audit stone...”), nhưng tất cả đều quy chung trên cơ sở phân t*ch đánh giá của công ty mẹ. Công ty mẹ thì lại l*p ra cách chọn mẫu trên cơ sở phân t*ch thị trường v* ch*nh sách t*i ch*nh hiện h*nh ở VN của một Trung tâm phân t*ch dữ liệu quốc tế n*o đó. Do đó, tùy từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế VN, m* có các số liệu về t*nh trọng yếu sẽ khác nhau cho mỗi loại hình doanh nghiệp VN, vì v*y cách chọn mẫu cũng khác nhau. v.v...

Vdụ: Kiểm toán BCTC năm 2004 của một DNNN VN đang hoạt động ổn định, nền kinh tế cũng ổn định, thì với phương pháp chọn mẫu “gì đó” của công ty kiểm toán A, thì số trọng yếu sẽ l* zzz v* suy ra mẫu kiểm toán phải l* xxx chẳng hạn. Thế thì, phương pháp chọn mẫu “gì đó” phải được xây dựng trên cách n*o, lý lu*n n*o cho phù hợp với các chuẩn mực kiểm toán. T*nh pháp lý của Phương pháp đó được bảo đảm ra sao???.

K*nh mong các bạn góp ý v* b*y vẽ cho.
 
H

hong hot

Cao cấp
Đồng ý với bạn là các hãng trên thế giới có thể có các phương pháp hay nói đúng hơn là mỗi hãng có guidlines riêng để các KTV của họ thực hành. Nhưng thưa với bạn là dù sao họ cũng không thể tách rời khỏi cái lý thuyết mà tôi đã nói vì kỹ thuật lấy mẫu là khoa học mà KTV đi mượn từ lý thuyết vê sác xuất thống kê. Cái gọi là phân tích thị trường và tài chính gì đó mà bạn nói thì tôi e rằng cuốn sách đó bị dịch lộn trang rồi, cái đó có thể hữu ích cho việc xét đoán của KTV nhiều hơn là ảnh hưởng đến phương pháp lấy mẫu. Còn nói đến cái chuyện trọng yếu thì tôi e rằng nó liên quan đến cỡ mẫu hay nói cách khác là mức độ kiểm tra của KTV đến đâu chứ liên quan gì đến cái phương pháp, kỹ thuật lấy mẫu nhỉ?

Còn về cái ví dụ bạn đưa ra, tôi thấy cũng rất hay. Bạn cứ yên tâm là KTV làm việc rất độc lập và công việc của họ có tính xét đoán rất cao, bản thân họ cũng phải tự thấy trách nhiệm của mình như thế nào trong việc chọn mẫu làm sao để đúng chuẩn mực, đảm bảo cơ sở lý luận khoa học để chứng minh họ đã làm phù hợp với yêu cầu của chuẩn mực, để cho mặt mũi của họ có thể sủi tăm được trong xã hội, tính pháp lý của nó thể hiện ở chỗ đó đấy bạn à.
 
K

kiemtoan

Sơ cấp
6/8/04
37
2
8
44
Hanoi
Ky thuat cho mau

"Nghe đâu, mỗi công ty kiểm toán của nước ngoêi đều có phương pháp chọn mẫu riêng của mình (vê PPháp đó được đặt tên riêng, vdụ: “Audit touchs programming”, “Audit stone...”), nhưng tất cả đều quy chung trên cơ sở phân têch đánh giá của công ty mẹ. Công ty mẹ thì lại lẪp ra cách chọn mẫu trên cơ sở phân têch thị trường vê chênh sách têi chênh hiện hênh ở VN của một Trung tâm phân têch dữ liệu quốc tế nêo đó. Do đó, tùy từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế VN, mê có các số liệu về tênh trọng yếu sẽ khác nhau cho mỗi loại hình doanh nghiệp VN, vì vẪy cách chọn mẫu cũng khác nhau. v.v..."

Doan tren nay cua cau to moi nghe lan dau, khong hieu cau dich tu tai lieu nao. Co the cho minh muon duoc khong?

Con phuong phap chon mau cua cac hang kiem toan duoc xay dung tren co so thong ke hang tram nam kinh nghiem, va do la bi quyet nghe nghiep cua hang, toi e rang kho co ai giai thich duoc cjho ban vi sao lai lam nhu vay? Chuan muc kiem toan quoc te va Viet Nam deu cho phep viec su dung phuong phap chon mau trong thuc hien kiem toan. Tat cac cong ty kiem toan deu phai tuan thu chuan muc trong qua trinh thuc hien kiem toan, chi co dieu phuong phap khac nhau thoi: Cong ty nay thi chon nhung mau co quy mo lon, Cong ty khac lai chon mau theo tinh chat thuong xuyen hay dac biet, co KTV lai chon mau theo kinh nghiem...

Con thuc te, trong khi thuc hien kiem toan viec chon mau thuong ap dung de kiem tra viec tuan thu quy trinh kiem soat noi bo do don vi thiet lap. Tuy nhien neu phat hien co sai sot va rui ro trong cac mau duoc chon, KTV se mo rong mau theo huong do. Dieu do khong co nghia trong cac mau chon khong co sai sot thi chung ta ket luan la khong co sai sot, chung ta chi dat duoc muc dich cua minh da dat ra ban dau la kiem tra he thong - quy trinh - thu tuc kiem soat ma thoi ( dai loai la kiem chung nhung thong tin khach hang cung cap ve chinh sach ban hang, nhap-xuat kho... co dung va hieu qua hay khong ), con de ket luan "khoan muc khong co sai sot trong yeu" thi KTV con phai ap dung nhieu thu tuc kiem toan khac ( ban nao thich minh se trao doi rieng ve van de nay sau nhe )

Va mot kinh nghiem thuong thay: qua kiem tra chon mau khong the dinh luong duoc sai sot cho ca tong the (don gian de xac dinh duoc chinh xac thi rat mat thoi gian neu co qua nhieu sai sot giong nhau) va thuong thi chung toi se dua ra y kien trong Thu Quan ly (dua ra vi du kem theo) ve van de ma chung toi phat hien qua kiem tra chon mau hoac ngoai tru tren Bao cao kiem toan neu van de qua trong yeu.

Tom lai, ban cu yen tam la cac ky thuat kiem toan ( dac biet la o cac hang quoc te ) trong do chon mau la 1, duoc thiet ke het suc khoa hoc va dam bao han che cac sai sot va rui ro nham " Cung cap dich vu vuot tren ca su mong doi cua khach hang va nhan vien". Ban cu tro thanh thanh vien cua 1 hang kiem toan quoc te danh tieng nhu DTT, KPMG, E&Y, PWC la se duoc dao tao ve van de nay.

Tren day chi la 1 so y kien cua minh, chac se rat kho hieu cho cac ban "ngoai dao" vi vay neu co bat ky feedback nao thi cac ban lien he voi minh nhe.

Chuc ban "Kingh" hoan thanh tot Bao cao cua minh. Ban co nick hay qua!
 
H

hong hot

Cao cấp
Nghe Kiểm toán nói thì đúng là chúng ta quá lý thuyết, còn thực tế nó xa vời vợi các bác nhẩy. Chắc phải có ý kiến để cải lùi chuẩn mực cho nó phù hợp với thực tế thôi.

Dưng mà bạn ơi, tôi không nghĩ chọn mẫu là một thủ tục kiểm toán đâu vì chọn mẫu xong rồi mới áp dụng các thủ tục kiểm toán lên đó chứ?, ở đây chỉ bàn đến vấn đề lấy mẫu kiểm toán thôi thì phải.

à mà Kiểm toán nhớ type tiếng việt cho anh em đỡ hoa mắt nhé.

Còn cái việc phương pháp chọn mẫu của các hãng thì tôi nghĩ chẳng có gì mà không chứng minh được vì nó vẫn dựa trên nguyên lý căn bản cộng với xét đoán của KTV. KTV phải chứng minh được phương pháp của họ làm là đúng, phù hợp và có cơ sở khoa học để làm căn cứ góp phần hình thành ý kiến của họ.

Nói chuyện thực tế, KTV chỉ chọn mẫu để test internal control sau đó nếu có sai sót thì mở rộng... gì đó rồi bổ sung thủ tục kiểm toán khác rồi không có sai sót trong mẫu thì không được coi là OK? nếu vậy xin hỏi bạn là khi nào sẽ OK? khi bạn làm đến cái phần tử cuối cùng của tổng thể hay khi khách hàng "khai" thật thì OK?. Về vấn đề này, tôi sợ bạn nhầm giữa thử nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản. mặc dù nó cụng chọn mẫu để lấy ra các phần tử rồi kiểm tra nhưng thưa với bạn là mục tiêu, cách thức và kết quả mong đợi của KTV ở 2 loại kiểm tra này khác nhau đấy bạn ạ.

Còn thực tế nữa là chọn mẫu không suy được cho tổng thể thì còn gọi gì là mẫu nữa hà giời? không biết bạn hiểu như thế nào về chữ mẫu trong tiếng việt? hay nếu không dùng quen tiếng việt thì là chữ sample trong tiếng Anh?. Chỉ có KTV lười, không thực hiện đúng chuẩn mực nghề nghiệp cũng như hướng dẫn thực hành của hãng mới không làm được việc đó chứ. Còn cái thư quản lý gì đó tôi thấy nó chỉ như cái vị thuốc trấn an tinh thần cho kiểm toán viên khi không cãi được với khách hàng để điều chỉnh hoặc trình bày báo cáo tài chính thôi (trường hợp có sai sót mà bạn không định lượng được cho tổng thể hoặc không chứng minh được cơ sở của phép định lượng hoặc cook nhiều quá không dám khoe ra). Cái thư quản lý chỉ đề cập những vấn đề liên quan đến tồn tại của hệ thống kiểm soát nội bộ thôi chứ đâu có phải là nơi để cho những cái sai sót không điều chỉnh được vào? hỏi bạn, khi người ta public cái báo cáo kiểm toán người ta có đính kèm cái thư quản lý cho bàn dân thiên hạ xem không?

Tóm lại, tôi sẽ không kiến nghị sửa chuẩn mực nữa vì phải xem xét lại vấn đề thực hành kiểm toán ở VN.

Chúc Kingh vỡ đầu vì không biết đường nào mà lần, bạn có cái nick khó suy diễn cho tổng thể quá.
 
deepblue

deepblue

Guest
22/7/04
182
1
0
45
Mù Cang Chải
Tôi đồng ý với honghot rằng cái gọi là Thư quản lý chỉ là liều thuốc trấn an tinh thần cho KTV thôi bởi vì TQL chỉ được công ty kiểm toán issue cho BGD của khách hàng để họ hoàn thiện hơn hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát thôi. Nó không được public ra ngoài nếu khách hàng không muốn. kiemtoan hiểu sai ý nghĩa của TQL rồi, xem lại nhé.

Tôi cũng muốn trao đổi thêm với kiemtoan khi kiemtoan viết lấy mẫu kiểm toán thường áp dụng để kiểm tra việc tuân thủ quy trình kiểm soát nội bộ của đơn vị đặt ra. Theo tôi được biết thì việc lấy mẫu kiểm toán để test internal control chỉ là một trong các thủ tục để test gồm: phỏng vấn, kiểm tra tài liệu và kiểm tra lại việc thực hiện các bước kiểm soát vậy việc lấy mẫu để test control chỉ là một bước mà thôi. Ngoài ra, kiemtoan thử giải thích giùm tại sao việc lấy mẫu để kiểm tra số dư các tài khoản lại không sử dụng thường xuyên như để kiểm tra internal control. Và để đảm bảo một khoản mục là " không có sai sót trọng yếu" thì KTV cần phải áp dụng nhiều thủ tục là những thủ tục nào rất mong được kiemtoan chỉ rõ.
VD: Khi mình chọn mẫu theo phương pháp thống kê đại diện để kiểm tra một khoản mục mà trong quá trình kiểm tra mẫu đó không phát hiện ra sai sót nào thì có thể kết luận là khoản mục đó không có sai sót trọng yếu được không?. Trong trường hợp phát hiện ra sai sót thì tiếp tục mở rộng mẫu hay như thế nào?
 
T

takivn

Guest
Chào các anh chị, em là lính mới vào topic này dừng lại đọc và có chút ý kiến góp vui...hôm rồi thầy dạy Kiểm toán trên giảng đường em có bảo, theo lý thuyết thì cũng như mấy anh chị đã bàn luận ở trên nhưng trên thực tế hiện nay các công ty kiểm toán lớn có qui mô quốc tế đều có phần mềm chọn mẫu kiểm toán, phần mềm này được viết bởi các nhà thống kê (toán thống kê) và người ta sẽ lập trình cho computer làm thế nào để lấy mẫu tốt và hữu hiệu nhất!. Còn về đề tài "chọn mẫu kiểm toán trong nền kinh tế VN" do kingh post..em thấy nó OK chứ đâu có gì đâu vì người đặt ra đề tài này muốn người làm tìm hiểu thực trạng về công việc lấy mẫu kiểm toán của các công ty kiểm toán và các kiểm toán viên ở Việt Nam...em xin nhấn mạnh 2 chữ "thực trạng"....vậy thì nếu kingh muốn nghiên cứu về đề tài này thì nên đọc phần này của honghot post nè...mà em đang học Kiểm toán nên biết, quả thật "chọn mẫu kiểm toán" là một đề tài khó nuốt đó...hihihi...thui chúc kingh may mắn

_____0o0____

Ở các công ty kiểm toán của ta hiện nay, việc kiểm tra cũng được kết hợp giữa các phương pháp, kỹ thuẪt trong đó bao gồm cả chọn 100%, chọn các phần từ đặc biệt vê lấy mẫu kiểm tóan. các KTV có kinh nghiệm thì thường kiểm tra các phần tỪ mê theo kinh nghiệm vê xét đoán của họ thì ở đó có thể chứa đựng nhiều sai sót. Việc chọn mẫu kiểm toán cũng được áp dụng nhưng có lẽ chủ yếu lê phi thống kê vì KTV không đánh giá vê suy rộng cũng như tênh toán ảnh hưởng của phương pháp lấy mẫu đến sai sót ước tênh cho tổng thể, nguyên nhân lê kỹ thuẪt còn hạn chế vê khả năng thuyết phục với khách hêng thường không cao. Việc lựa chọn ngẫu nhiên cũng còn nhiều vấn đề phải bên luẪn, vê dụ một KTV có thể thay đổi một mẫu nêo đó trong tẪp mẫu của anh ta chỉ bằng thay đổi một cái starting point vì tất cả các phần tỪ đều có cơ hội được lựa chọn vê starting point lê random creation. Một số nơi, việc chọn mẫu hoên toên do máy tênh thực hiện theo nguyên tắc mê KTV chỉ định cho máy tênh thực hiện nhưng việc nêy đòi hỏi tổng thể phải đáp ứng được yêu cầu của phần mềm của KTV, thông qua phần mềm nêy, máy tênh cũng tự động ước tênh sai sót trong tổng thể trên cơ sở kỹ thuẪt lấy mẫu được chỉ định từ trước.

Liên quan đến vấn đề chọn mẫu kiểm toán, có một số lưu ý để KTV áp dụng trong thực hênh.

- Cơ sở chọn mẫu bao giờ cũng sinh ra rủi ro lấy mẫu. đây chênh lê rủi ro mê có sai sót trọng yếu ở ngoêi phạm vi lấy mẫu. cái vấn đề nêy theo tôi thì may hơn khôn vê nó tồn tại một cách tất yếu bởi bản chất của phương pháp.
- Nếu đã chọn mẫu rồi mê KTV có năng lực hạn chế thì đó lê rủi ro ngoêi lấy mẫu. Rủi ro nêy liên quan trực tiếp đến năng lực của KTV chứ không liên quan đến phương pháp, kỹ thuẪt chọn mẫu vì sai sót nằm trong chênh cái mẫu mê KTV đã kiểm tra.
- Xác định tênh chất của tổng thể một cách phù hợp. Một tổng thể, nếu có sai sót thì có thể sai sót đó lê cao hơn hoặc thấp hơn thực tế, theo đó, việc xác định hướng kiểm tra vê nguồn tiếp cẪn têi liệu lê quan trọng để có thể phát hiện được các sai sót thừa hoặc thiếu nêy.
- TÍnh đầy đủ của tổng thể. một khoản mục được kiểm toán trên BCTC lê giá trị tiền tệ còn tổng thể của khoản mục đó có thể không lê tiền tệ nên cần thiết phải có thủ tục kiểm tra đảm bảo tổng thể đó đã đầy đủ để cover toên bộ chỉ tiêu trên BCTC.
- Nếu KTV áp dụng phương pháp kiểm tra các phần tỪ đặc biệt thì phần còn lại của tổng thể phải được thực hiện kiểm tra bằng phương pháp chọn mẫu phù hợp trừ khi phần còn lại đó lê không trọng yếu.

Hiện nay trên thế giới, phương pháp lựa chọn phần tỪ để kiểm tra thường thiên về lựa chọn các phần tỪ đặc biệt (theo số lớn) để đảm bảo cho một tỷ lệ nêo đó của tổng thể rồi áp dụng phương pháp chọn mẫu để thực hiện đối với phần còn lại. theo quy định của hãng, việc tuân thủ các nguyên tắc chọn mẫu vê đánh giá kết quả được tuân thủ hết sức nghiêm ngặt vì đây chênh lê vũ khê của kiểm toán viên, cũng như khái niệm về phạm vi kiểm toán vê trọng yếu vẪy.
 
D

dreamman

Guest
13/9/04
1
0
0
49
HCMC
kingh nói:
Thênh thẪt cảm ơn các bác nhiều!
Tuy nhiên, tôi vẫn thấy các ý kiến của các bác còn lý thuyết quá!. Nghe đâu, mỗi công ty kiểm toán của nước ngoêi đều có phương pháp chọn mẫu riêng của mình (vê PPháp đó được đặt tên riêng, vdụ: “Audit touchs programming”, “Audit stone...”), nhưng tất cả đều quy chung trên cơ sở phân têch đánh giá của công ty mẹ. Công ty mẹ thì lại lẪp ra cách chọn mẫu trên cơ sở phân têch thị trường vê chênh sách têi chênh hiện hênh ở VN của một Trung tâm phân têch dữ liệu quốc tế nêo đó. Do đó, tùy từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế VN, mê có các số liệu về tênh trọng yếu sẽ khác nhau cho mỗi loại hình doanh nghiệp VN, vì vẪy cách chọn mẫu cũng khác nhau. v.v...

Vdụ: Kiểm toán BCTC năm 2004 của một DNNN VN đang hoạt động ổn định, nền kinh tế cũng ổn định, thì với phương pháp chọn mẫu “gì đó” của công ty kiểm toán A, thì số trọng yếu sẽ lê zzz vê suy ra mẫu kiểm toán phải lê xxx chẳng hạn. Thế thì, phương pháp chọn mẫu “gì đó” phải được xây dựng trên cách nêo, lý luẪn nêo cho phù hợp với các chuẩn mực kiểm toán. Tênh pháp lý của Phương pháp đó được bảo đảm ra sao???.

Kênh mong các bạn góp ý vê bêy vẽ cho.

Việc chọn mẫu Kiểm toán chủ yếu dựa vào những "cái đầu" của kiểm toán viên thôi bạn ạ.
Các công ty Kiểm toán lớn như "Big-Four" sở dĩ xây dựng được những chương trình kiểm toán tổng quát cũng chỉ là khái quát lại từ kinh nghiệm của những "cái đầu" của công ty họ mà thôi. Còn trong thực tế, không phải kiểm toán ở công ty nào họ cũng làm theo như thế đâu.
Về VD bạn đưa ra là quá chung chung. Để thiết lập một chương trình kiểm toán, kiểm toán viên phải dựa vào các thông tin cụ thể của DN đó, chứ không thể "hoạt động ổn định" hay "trong một nền kinh tế ổn định" là có thể xây dựng được chương trình.
 
H

hong hot

Cao cấp
Làm tí về Audit Sampling vậy.

Trước hết, phải nói về sự hình thành và phát triển của lấy mẫu kiểm toán. Ở Mẽo, trước thế kỷ 20, các cuộc kiểm toán được thực hiện trên cơ sở kiểm tra toàn bộ các nghiệp vụ phát sinh trong kỳ kế toán mà báo cáo tài chính được lập. Đến đầu thế kỷ 20, khi số lượng cũng như quy mô của các Công ty cứ phìng ra ngày một to, to đến nỗi không thể kiểm tra toàn bộ nghiệp vụ nữa. Tất nhiên là lúc đó, khái niệm về lấy mẫu còn chưa được quan tâm như bây giờ, mãi đến năm 1917 mới có một cuốn sách đầu tiên đề cập một cách rất sơ khai đến thủ tục chọn mẫu trong kiểm toán, thủ tục này là tiền đề về sampling mà những người tiền nhiệm trong AICPA lập ra.

Trong vài chục năm đầu, việc chọn mẫu kiểm toán chưa có khái niệm phân biệt giữa lấy mẫu cho kiểm tra chi tiết và kiểm tra hệ thống (hay nói cách khác là thử nghiệm cơ bản và thử nghiệm kiểm soát), đến những năm 20 thì mới có khái niệm này và năm 30 mới đưa vào thực hành ở một số công ty kiểm toán.

Năm 1955, tổ chức tiền thân của AICPA là AIA chính thức ấn hành một case study về lấy mẫu kiểm toán, study này chọn lọc các chương trình lấy mẫu do một số kiểm toán viên tạo ra mang tính tham khảo cho thực hành lẫy mẫu, đây là một ấn bản hết sức quan trọng vì nó là tài liệu đầu tiên trên thế giơí về lấy mẫu kiểm toán và nó cũng là lần đầu tiên nói về mối liên hệ giữa mức độ thử nghiệm cơ bản và độ tin cậy vào hệ thống kiểm soát nội bộ.

Trong những năm 50, một số kiểm toán viên bắt đầu ứng dụng lý thuyết sác suất thống kê vào lấy mẫu kiểm toán (đương nhiên không thuần tuý là lấy mẫu mà nó còn bao gồm cả tính toán cỡ mẫu, phương pháp lựa chọn, đánh giá kết quả...), lúc bấy giờ còn nhiều tranh cãi về việc có áp dụng lý thuyết đó vào kiểm toán hay không. Tuy nhiên, đến năm 1962, AICPA chính thức công bố việc áp dụng lý thuyết sác suất thống kê vào kiểm toán và công nhận tính chính xác cũng như độ tin cậy của chọn mẫu thống kê, việc thừa nhận tính chính xác và tin cậy của chọn mẫu thông kê được đề cập trong Statement on Auditing Standard (SAP) số 54 ấn hành lần đầu tiên năm 1972. Như vậy, đã có cơ sở nhất định cho phép các kiểm toán viên áp dụng phương pháp lấy mẫu kiểm toán. Ngoài ra, các hãng kiểm toán lớn, họ xây dựng các phương pháp tiếp cận riêng phù hợp với ISA rồi đăng ký tại một toà án ở Thuỵ Sỹ theo luật Verein thành một phương pháp chuẩn của họ và áp dụng rộng rãi trên thế giới. Nhân viên của họ không được yêu cầu phải chứng minh các phương pháp này và nếu có tranh chấp xảy ra thì sẽ có người bảo vệ giúp họ với điều iện họ đã tuân thủ các quy định kỹ thuật của hãng.
 
B

botanic

Guest
kingh nói:
Tôi đang nghiên cứu làm cái đề tài “chọn mẫu kiểm toán” trong nền kinh tế VN. Sao mà phức tạp quá!!!! thấy cái gì cũng rủi ro cả, cũng trọng yếu cả!!!. Chon mẫu thống kê, rồi phi thống kê cũng không thỏa mản. Chẳng lẻ phải làm 100% các nghiệp vụ hay sao???? mấy cha kiểm toán kêu là lảng phí lắm, không hiệu quả nếu làm 100% chứng từ!!!
Các bác nào có tài liệu gì về chọn mẫu kiểm toán có thể áp dụng trong nền kinh tế VN cho tôi biết với, tôi sẽ hậu tạ hậu tấn!.

Chao ban, minh la mot thanh vien moi cua dien dan, minh cung ddang viet dde tai nhu ban dday, minh muon tim " Chuan muc kiem toan quoc te" nhung khong biet nen tim o ddau. O nha sach cung co nhung chuan muc ve Lay mau kiem toan lai khong co'. Co ban nao biet chi minh voi , minh cam on nhieu.
con ve dde tai lay mau kiem toan, minh cung dda hoi mot so nguoi, hau het khong co mot quy trinh ro rang cu the, tren thuc te ddeu dua vao xet ddoan, kinh nghiem cua kiem toan vien thoi, moi nguoi ddeu co mot cach lam viec rieng. Minh dda doc chuan muc kiem toan Viet Nam va ddang muon tim them tai lieu cho dde tai.
Cam on cac ban!
 

Xem nhiều

Webketoan Zalo OA