Liên quan đến các vấn đề bạn hienha đưa ra, Letrans có ý kiến như sau:
1. Đồng chủ tài khoản:
Không có quy định nào yêu cầu phải là có quan hệ huyết thống hoặc vợ chồng mới được đồng chủ tài khoản. Theo đó, quy định hiện nay về vấn đề này không nên tham chiếu luật Dân sự mà phải tham chiếu : QUYẾT ĐỊNH của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Số 1284/2002/QĐ-NHNN Ngày 21 tháng 11 năm 2002 Ban hành "Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước và Tổ chức tín dụng". Nội dung liên quan như sau:
@ Hồ sơ đối với đồng chủ tài khoản gồm các giấy tờ chính sau:
a) Giấy đề nghị mở tài khoản đồng sở hữu;
b) Các giấy tờ chứng minh tư cách đại diện hợp pháp của người đại diện cho Tổ chức tham gia tài khoản đồng sở hữu.
c) Văn bản thoả thuận (hợp đồng) quản lý và sử dụng tài khoản chung của các đồng chủ tài khoản.
@ Về Sử dụng tài khoản đồng chủ tài khoản:
Việc sử dụng tài khoản đồng chủ tài khoản phải thực hiện theo đúng các nội dung cam kết và thoả thuận trong Văn bản thoả thuận (hợp đồng) quản lý và sử dụng tài khoản chung.
Trừ khi có các thoả thuận khác về cách thức sử dụng tài khoản chung, quyền và trách nhiệm của mỗi đồng chủ tài khoản trong việc sử dụng tài khoản chung, phương thức giải quyết khi có tranh chấp, thì việc sử dụng tài khoản đồng chủ tài khoản thực hiện theo nguyên tắc sau:
- Các đồng chủ tài khoản có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài khoản chung và việc sử dụng tài khoản phải có sự chấp thuận của tất cả những người là đồng chủ tài khoản. Mỗi đồng chủ tài khoản phải chịu trách nhiệm thanh toán cho toàn bộ các nghĩa vụ nợ phát sinh từ việc sử dụng tài khoản.
- Thông báo liên quan đến sử dụng tài khoản cho một đồng chủ tài khoản được coi như thông báo tới tất cả các đồng chủ tài khoản.
- Các đồng chủ tài khoản được uỷ quyền cho nhau hoặc uỷ quyền cho người khác trong việc sử dụng và định đoạt tài khoản chung trong phạm vi quyền và nghĩa vụ của mình.
- Khi đồng chủ tài khoản là cá nhân chết, bị tuyên bố mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự, hoặc tổ chức bị chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật thì quyền sử dụng tài khoản và nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài khoản được giải quyết theo quy định của pháp luật.
2. Về vấn đề thanh toán cho đối tác khi chưa có giấy tờ hải quan.
Thực ra, trường hợp bạn nêu là thanh toán bằng chuyển tiền. Theo đó, nó là một phương thức thanh toán trong đó khách hàng (người có yêu cầu chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình, chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định.
Quy trình thanh toán bằng chuyển tiền:
(1) Người xuất khẩu chuyển giao hàng và bộ chứng từ hàng hoá cho người nhập khẩu
(2) Người nhập khẩu sau khi kiểm tra hàng hoá (hoặc bộ chứng từ hàng hoá), nếu thấy phù hợp yêu cầu theo thoả thuận đôi bên, lập thủ tục chuyển tiền gửi ngân hàng phục vụ mình
(3) Ngân hàng chuyển tiền lập thủ tục chuyển tiền qua ngân hàng đại lý (hoặc chi nhánh)- ngân hàng trả tiền
(4) Ngân hàng trả tiền thanh toán tiền cho người thụ hưởng
Trong quy trình này, Ngân hàng không chịu trách nhiệm trong việc chờ thủ tục hải quan. Bởi một điều rất đơn giản như bạn Phuongnam nói, nếu Hợp đồng thanh toán yêu cầu thanh toán trước thì lấy đâu ra Hải quan.
Cheers,