Mỗi ngày một bài thơ

  • Thread starter hongminh
  • Ngày gửi
Tigon-ETC

Tigon-ETC

Gió bụi nhân gian
Hoa lưu ly
-Tịnh Bình-

Đã lâu rồi lòng như biển vắng
Bờ bãi dài hoang lạnh
mãi ru mình trong giấc mơ xa...
Những giấc mơ ngập sắc hoa lưu ly tím biếc
len vào hồn ta một nỗi buồn dịu nhẹ
Về một bóng hình đã xa xôi
Về một thời đã hoá thành ký ức
Dấu yêu xưa vẫn trào dâng rát ngực
Khi bàn tay vô tình chạm đoá lưu ly

Ngày xưa...
Anh ép vào tim em đoá hoa lưu ly tím biếc
Và nói rằng tình yêu chẳng bao giờ phai vàng
Lưu ly - muôn đời - mãi mãi...
Sao lại lìa xa?
Để lưu ly - muôn đời - vụng dại...
trong tàn phai
Vẫn gọi mãi lưu ly...
 
Khóa học Quản trị dòng tiền
IChiNoVa

IChiNoVa

Phu cà phê
2/4/05
134
4
18
Sòn Gài
www.xommuaban.vn
Núi đôi (Vũ Cao)

Núi đôi (Vũ Cao)

Bảy năm về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng
Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa
Bữa thì em tới bữa anh sang.


Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi
Em vẫn đùa anh sao khéo thế
Núi chồng, núi vợ đứng song đôi.


Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau.

Anh vào bộ đội lên Đông Bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mỗi bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục
Núi Đôi chăng.

Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.

Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông.

Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà thăm núi Đôi.

Mới đến đầu ao tin sét đánh
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thủy chung.

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em.

Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng.

Từ núi qua thôn đường nghẽn lối
Xuân Dục Đoài Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay,

Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuấy dần chuyện xót đau.

Anh nghe có tiếng người qua chợ
Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu.

Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó anh còn đây
Ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này?

Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.

Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.​
 
IChiNoVa

IChiNoVa

Phu cà phê
2/4/05
134
4
18
Sòn Gài
www.xommuaban.vn
Một sự thật đẹp hơn huyền thoại (cô gái trong "Núi đôi")

Một sự thật đẹp hơn huyền thoại

Những điều ít biết về cô gái trong bài thơ "Núi Đôi" của nhà thơ Vũ Cao

Nhà thơ Vũ Cao trong một lần trò chuyện với khoa Văn Trường CĐSP HN, ông kể: Có nữ sinh đã khóc nói với ông rằng "Bác ơi cháu thương bác quá, vì bác đã mất người yêu". Ông cũng không biết giải thích sao với cô nữ sinh đa cảm. Bài thơ "Núi Đôi" được ông sáng tác nhân lần ông nằm điều trị tại bệnh viện 74 ở Sóc Sơn. Ông đã nghe được câu chuyện từ đồng đội và dân làng Phù Linh về một cô gái đã hy sinh anh dũng ở Núi Đôi để bảo vệ một đoàn cán bộ khi cô mới chỉ chừng 20 tuổi. Vào thời đó, nhiều chuyện thực xung quanh cuộc sống riêng và hoạt động cách mạng của cô ít được biết rõ. Và thế là câu chuyện người ta lưu truyền bằng tình cảm khâm phục và tự hào đã tạo nên một huyền thoại đối với thế hệ trẻ sau này. Năm 1975, có một người đàn ông tìm đến gặp nhà thơ Vũ Cao, lúc đó nhà thơ mới vỡ lẽ: Liệt sỹ Trần Thị Bắc - cô gái Núi Đôi đó đã có chồng, một anh bộ đội Cụ Hồ và chuyện đời, chuyện tình của họ còn cảm động hơn nhiều những gì chúng ta đã nghe kể…

Vùng đất đã trở thành huyền thoại.

Xuân Dục- Đoài Đông là bên này và bên kia hai ngọn núi đôi, thuộc Xuân Đoài -xã Phù Linh (Lạc Long cũ)-Sóc Sơn-HN. Xuân Đoài gồm có 3 xóm: xóm Núi Đôi-xóm Giữa-xóm Chùa. "Xóm Chùa cháy đỏ những thân cau" chính là quê hương của cô gái Trần Thị Bắc ngày xưa - Cô gái được nhắc đến trong bài thơ "Núi đôi".

Trước những năm 1950, Lạc Long là vùng địch hậu, là trọng điểm giằng co giữa ta và quân Pháp. Núi Đôi vừa chứng kiến những tang tóc đau thương vừa ghi tạc những tấm gương anh dũng của quân và dân ta. Cho đến nay những chứng tích xung quanh Núi Đôi vẫn còn với những bốt lave, Miếu Thờ, Núi Đôi, bốt Thá…Lạc Long có 3 đồn Tây án ngữ giữa xã như chảo lửa và bị cô lập bởi vành đai trắng do địch tạo ra. Trong hoàn cảnh khốc liệt đó, người dân Lạc Long vẫn một lòng kiên trung và đây trở thành một trong những xã tiêu biểu về chiến tranh du kích thời chống Pháp với nhiều tên tuổi được ghi nhận trong đó có ông Nguyễn Văn Vấn, xã đội phó từng vác dao chém Tây giữa chợ huyện, lập nhiều chiến công trong các cuộc phá đồn tây và từng là Chiến sỹ thi đua toàn quân…

Trở về Núi Đôi bây gờ hai ngọn núi vẫn còn đó, cây rừng tái sinh đã phủ xanh che đi những sườn núi lở lói sặc mùi thuốc súng năm nào. Những đồn bốt đã rêu phong, trở thành chỗ chơi trốn tìm của trẻ nhỏ… Rưng rưng giữa lối vào xóm Chùa, những đổi thay khiến người ta cảm nhận nỗi đau dường như đã chôn sâu vào lòng người sau hơn nửa thập kỷ trôi đi.

Trong ký ức của những người dân ở đây, điều được nói nhiều nhất lại là huyền thoại về cô gái Núi Đôi. Có những em bé hồn nhiên bảo: "Cô ấy tên là Ngát, là Hương…" Có người bảo cô không có ai thân thích, có người khẳng định "cô ấy chưa hề có người yêu, còn trẻ lắm mới 17-18 tuổi thôi". Chỉ hỏi riêng chuyện: "Anh đi bộ đội "sao trên mũ" ngày ấy là ai ?" Mỗi người nói một phách: Là ông A, ông B… Có lẽ thời chiến tranh khốc liệt, chẳng phải ai cũng có điều kiện hiểu về người khác một cách chân tơ kẽ tóc. Song cũng có thể, người ta chỉ muốn nghĩ về cô gái Núi Đôi bằng những thêu dệt như trong huyền thoại, tuy sai thực tế, nhưng chung quy cũng vì một sự mến mộ đối với người đã khuất.

Và một cuộc đời có thật.

Liệt sỹ Trần Thị Bắc là con gái đầu của một gia đình có truyền thống yêu nước. Các bác, các cậu của cô đều là cơ sở của Cách mạng, là du kích. Có người là liệt sỹ, có người từng bị giặc bắt. Bố cô những năm đó cũng là xã đội phó xông pha gan dạ, bị địch bắt tra tấn chết đi sống lại. Lớn lên giữa những người như vậy, mới chỉ 15 tuổi Bắc đã tham gia các hoạt động của các đoàn thể. 17 tuổi cô vào đội du kích với nhiệm vụ làm giao thông liên lạc, tiếp tế cho đội du kích trong những lần đi bắn tỉa đồn Tây. Năm 1950, cô được cử đi học y tá rồi trở về kiêm nhiệm thêm việc cứu thương. Có lần theo đội du kích đi bắn tỉa, cô bị đạn của kẻ thù bắn xướt qua mặt để lại vết thương ngay dưới khoé mắt. Nhưng cô không hề biết sợ hãi.

Là một cô gái xinh đẹp, hát hay và khéo ăn nói, năm 1951, Bắc được giao cả 3 nhiệm vụ: quân báo, cứu thương và binh vận.

Thời đó, người ta thấy có một cô gái hàng ngày quẩy gánh đi buôn bán, chiều chiều lại quanh quẩn quanh khu đồn Tây để cắt cỏ. Những tên lính đồn chẳng những không nghi ngờ mà còn tỏ ra quý mến Bắc. Cô ra vào đồn Tây tương đối dễ dàng, gánh nước giúp bọn lính đồn, lân la trò chuyện với chúng. Bắc làm quen được với những tên Tây chỉ huy để thăm dò tin tức và gây dựng được một nhân mối bao gồm hai cai ngụy, một người làm thợ mộc trong đồn Tây và một vợ Tây… Những người này đã thường xuyên cung cấp cho Bắc những thông tin về kế hoạch hoạt động của lính đồn, nhiều điều cơ mật của địch. Với những thông tin quý báu do Bắc đem về, quân ta đã tránh được rất nhiều tổn thất trong cuộc đấu tranh với quân Pháp. Sau này, khi nguy cơ bọn Pháp có thể lần ra nhân mối, cô đã tìm cách đưa hai người cai ngục được giác ngộ chạy thoát ra vùng kháng chiến.

Vào ngày 12/3/1954, nhóm cán bộ của ta họp tại Lương Châu để chuẩn bị cho kế hoạch đánh phục kích địch. Tiên lượng sau khi ta đánh thì địch sẽ tức tối điên cuồng và tổ chức vây ráp càn quét, cấp trên lệnh rút bớt cán bộ nằm vùng ra vùng tự do để tránh tổn thất. Đoàn cán bộ di chuyển ra vùng tự do ngay trong đêm hôm đó gồm có trên 30 người. Bắc được cử dẫn đoàn đi vì hai lẽ: Cô thông thạo địa bàn, gan dạ và khôn khéo trong ứng phó khi có tình huống xấu. Mặt khác, bản thân cô cũng có dấu hiệu bị lộ, nên đã được lệnh chuyển công tác, hoặc sẽ về làm quân báo của huyện đội hoặc về phòng y tế huyện. Ngày 21/3 cũng là ngày Bắc về Núi Đôi thì gặp ổ phục kích của địch. Bọn địch bắt được Bắc, bịt miệng cô dự định ém chờ bắt nốt những người đi sau. Biết điều đó, Bắc đã chống cự quyết liệt. Cô cố kêu to và lao vào tên Tây chỉ huy túm lấy bộ hạ hắn. Tên này đau điếng quên mất việc lớn, kêu rống lên. Một tên lính lê dương đứng cạnh đã lôi Bắc ra và xả trọn băng đạn vào ngực cô. Đoàn cán bộ của ta ra khỏi Lương Châu nghe tiếng súng biết là bị lộ đã lui lại chờ đến khi địch rút. Khi anh em du kích và quân báo huyện tới nơi Bắc giằng co với địch thì Bắc đã hy sinh. Máu loang đỏ ối trên ngực cô bắt đầu se lại. Những viên đạn của kẻ thù vẫn còn găm nguyên ở đó. Bắc được anh em thay nhau cõng vượt vành đai trắng ra đến Cầu Cốn-Vệ Sơn-xã Tân Minh và được đồng đội an táng ở đây.

Đội Hoè, chỉ huy quân đồn Miếu Thờ, có mặt trong trận phục kích đó, sau này kể lại: Hôm ấy bọn địch huy động cả lính đông gấp đôi, gồm quân của bốt Núi Đôi và bốt Miếu Thờ vì nghi du kích đang đào hầm hố quanh bốt. Bắc đã lọt vào giữa ổ phục kích, nếu cô không đánh động thì còn nhiều cán bộ bị bắt.

Dân làng thương tiếc Bắc nói với nhau: "Cái Bắc nó muốn sống thì vẫn có cơ hội, vì nó quen biết với bọn Tây, có thể van xin chúng tha cho. Mặt khác, nó cũng mới chỉ bị tình nghi là du kích thôi". Nhưng điều đáng nói lại ở chỗ, Bắc có thể tìm đường thoát cho mình nhưng cô đã chọn cái chết vì những người khác.

Sau này khi Phù Linh được công nhận là xã anh hùng và chuẩn bị xét chọn phong tặng danh hiệu anh hùng đối với một số cá nhân xứng đáng. nhiều người đã có ý kiến: Phải truy tặng danh hiệu anh hùng cho cô gái Núi Đôi năm xưa. Tuy thành tích của liệt sĩ Trần Thị Bắc khiêm nhường hơn những bậc cha chú đi trước nhưng cô lại được lòng dân yêu mến, bởi cô đã sống đẹp và dám chết khi cần thiết. Cũng phải nói thêm, phải đến lần thứ ba chuyển mộ và sau khi bài thơ "Núi Đôi" của nhà thơ Vũ Cao ra đời vào năm 1956, Trần Thị Bắc mới được công nhận là liệt sĩ. Tuy nhiên trong lòng dân và trong trái tim những người thân đồng đội, Bắc vẫn đẹp và còn mãi.

Chuyện tình đẹp nhưng mỏng như lá.

Anh bộ đội "sao trên mũ" ấy là Trịnh Khanh người cùng quê Lạc Long. Chúng tôi tìm đến thôn Hậu Dưỡng - xã Kim Chung - Đông Anh - Hà Nội. Ông Trịnh Khanh bây giờ đã ngoài 70 tuổi là một lão thành Cách mạng, nguyên Chủ nhiệm khoa Lịch sử, Viện Mác-Lê Nin. Khác với dự đoán của chúng tôi, ông cởi mở nhưng rất đúng mực khi chúng tôi gợi về "một miền ký ức" mà ông ít khi nhắc tới, cả với những người bạn đồng niên.

"Năm ấy đại đội tôi đóng quân ở gần khu sơ tán, tôi tình cờ quen một cô gái đồng hương đang theo học một lớp y tá tại đó. Có chung nhiều điều để chia sẻ, chúng tôi trở nên thân thiết. Nhưng rồi chúng tôi cũng phải xa nhau, mỗi người một nhiệm vụ. Bẵng đi đi gần hai năm, năm 1952, tôi mới gặp lại Bắc khi cô ấy tiếp tục theo học lớp y tá của tỉnh. Chúng tôi đã hẹn ước với nhau. Trong suốt thời gian đó, Bắc thường xuyên sang chơi, nấu cơm cho cả mấy anh em trong tiểu đoàn chúng tôi. Mọi người đã gọi cô là "dâu của tiểu đoàn". Đó là thời gian ngắn ngủi chúng tôi sống trong hạnh phúc của những người yêu nhau. Rồi Bắc quay về Phù Linh. Tháng 1/1953, Tiểu đoàn 64 của tôi đang phải đương đầu với một trận càn của một binh đoàn Pháp. Trước trận đánh, người chỉ huy của tôi đùa: "Sau trận này sẽ duyệt cho thằng Khanh về cưới vợ". Anh em ai cũng mừng cho tôi, chẳng ai ngờ sau đó ít phút người chỉ huy đó đã hy sinh vì đạn pháo của địch. Và phải 1 năm sau tôi mới có dịp đi tìm Bắc ở vùng tự do Hồng Kỳ. Nói đến chuyện làm lễ cưới chúng tôi đều khóc. Hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, chúng tôi lại chẳng có tiền mua thuốc nước mời bạn bè, đồng đội. Bắc trở về hậu địch gặp mẹ. Và thật bất ngờ, mẹ Bắc đã cõng theo cậu em út từ hậu địch ra mang theo bánh kẹo để chúng tôi làm lễ cưới. Đêm đó chúng tôi được mọi người chuẩn bị cho một ổ rơm trên đồi. Hai ngày sau chúng tôi lại chia tay nhau và đó là cuộc chia ly vĩnh viễn…"

Chợt nhớ câu "Phiên chợ Phù Linh ai cũng bảo/Em còn trẻ lắm nhất làng trong/Mấy năm cô ấy làm du kích/Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng", tôi thắc mắc, tại sao trong bao năm, không thấy ai nói chuyện cô Bắc năm xưa có chồng? Ông Khanh cười buồn: Chúng tôi cưới nhau ở vùng tự do, quê hương ở vùng địch hậu nên ít người biết ngoài những người thân thích. Vả lại tiếng là cưới nhưng cũng chỉ được sống cuộc sống vợ chồng có 2 ngày thôi. Sau này, người ta cũng đinh ninh như thế, tôi cũng chẳng giải thích. Nhắc lại chi một chuyện đau buồn. Năm 1975, tôi tìm gặp nhà thơ Vũ Cao để cảm ơn ông, nhà thơ lúc đó cũng mới kêu lên: "Thế Bắc có chồng rồi à?"

Sau 3 tháng kể từ ngày cưới, ông Khanh nhận được một lúc 3 lá thư, 1 lá của đồng đội, một của vợ ông nhắn đã gửi cho ông chiếc đồng hồ và cái áo len, 1 lá của nhà báo tin vợ ông đã hy sinh. Ông đau đớn đến lặng người, nhưng hoàn cảnh kháng chiến nên phải đến hoà bình lập lại ông mới được trở về tìm mộ vợ.

Chiều hôm ấy, những người dân thấy một anh bộ đội thờ thẫn bên gò Cầu Cốn. Người em của liệt sỹ Trần Thị Bắc nhận ra anh rể, khóc oà. Kể về ngày đó, ông Khanh nghẹn ngào không nói thành lời. Ông đọc cho chúng tôi nghe khổ thơ: Anh ngước nhìn lên hai dốc núi/Hàng cây, bờ cỏ, con đường quen/ Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói/Núi vẫn đôi mà anh mất em. Chưa hề gặp người lính cụ Hồ năm nào đã yêu người liệt nữ nhưng sự hình dung của nhà thơ đã nói được những gì thổn thức trong lòng ông Khanh.

Sau này, khi nỗi buồn nguôi đi, chính mẹ vợ ông, tức mẹ đẻ của liệt sỹ Trần Thị Bắc đã thân chinh đi hỏi vợ lần nữa cho ông. Ông Khanh kết hôn lần thứ hai với em gái một đồng đội đã hy sinh. Người đàn bà thứ hai trong đời ông, thật may, là người hiểu lẽ đời và sống có tình có nghĩa. Bà đã về quê bà Bắc, gặp gỡ họ mạc và các cụ thân sinh ra người đã khuất. Ai cũng quý mến và xem hai vợ chồng bà như người trong nhà. Bây giờ khi đã ngoài 70, không thể đi lại nhiều, ông Khanh vẫn cho các con về Núi Đôi vào các dịp giỗ Tết.

Ông Trần Văn Nhuận, người em út đã chứng kiến đám cưới của anh chị mình bùi ngùi kể: "Anh tôi (ông Khanh) là người chu đáo, người vợ sau này cũng rất tốt. Giờ đây chúng tôi không chỉ coi anh ấy như là anh rể mà coi anh ấy như là ruột thịt". Một lần đài truyền hình về Sóc Sơn quay phóng sự và khẳng định: Liệt sỹ Trần Thị Bắc là liệt sỹ cô đơn không ai cúng giỗ". Những người em của bà Bắc đã khăn gói lên nhà anh rể vào đúng ngày gỗ chị. Họ thấy trên bàn thờ mâm cơm ngát mùi khói hương và lặng lẽ khóc.

Những thêu dệt về thân thế của người liệt nữ vẫn không chấm dứt. Bà đã đi vào phim với một hình ảnh được thêu dệt như thế. Nhưng ít ai biết có một đời thực không tô vẽ, phóng đại vẫn đẹp mãi giữa cuộc sống thường ngày này và đẹp cả trong tình cảm ấm áp của người thân còn sống.

Theo Giáo dục và Thời đại.
 
cam_to_80

cam_to_80

Nghỉ mất sức !
31/3/04
588
7
18
45
Hà đông
Nhíu mày căng mắt nghĩ thêm bài
Vò đầu bức tóc bẻ cả tai
Tình hình dạo này yên ắng quá
Muốn viết một bài.... thôi ....để sáng mai :wall:


:drummer:
 
cam_to_80

cam_to_80

Nghỉ mất sức !
31/3/04
588
7
18
45
Hà đông
Mây trời trôi lờ lững
Ánh mắt dõi xa xăm
Mơ về nơi ảo ảnh
Nơi người bạn yên nằm
Một góc trời tang tóc
EFC buồn tênh
Một giọt buồn nhỏ xuống
Nặng lòng ai muôn phần
Anh yên lòng anh nhé
Chúng ta chỉ tạm xa
Mai này em cũng thế
Đến bên anh thôi mà
 
IChiNoVa

IChiNoVa

Phu cà phê
2/4/05
134
4
18
Sòn Gài
www.xommuaban.vn
Cô gái trong bài thơ


Trần Thị Bắc sinh năm 1932, tại thôn Xuân Dục Đoài, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn - Hà Nội. Từ đỉnh núi Sóc, nhìn về quê hương cô đẹp như một bức tranh hoạ đồ. Với những con ngòi nhỏ uốn lượn chảy qua, ở giữa cánh đồng lúa chín vàng óng ả, mọc lên hai ngọn núi xanh biếc, có hình thù, kích thước giống hệt nhau, khiến mọi người dễ có cảm nhận, đó là một cặp núi sinh đôi. Núi Đôi, vốn là một vùng đất giầu truyền thống cách mạng, và cũng rất "tình đất, tình người". Trong những năm kháng chiến chống Thực dân Pháp, do địa hình nằm ở giữa vùng có những con đường huyết mạch chạy qua như: Quốc lộ 3, (Hà Nội - Thái Nguyên), đường 131 nối liền tỉnh Vĩnh Phúc qua sông Cầu tới Bắc Giang… nên khu vực núi Đôi bao gồm các xã: Phù Linh, Tiên Dược, Tân Minh của huyện Sóc Sơn đã trở thành một đầu mối rất quan trọng, ví như một "mắt xích" nối liền giữa chiến khu Việt Bắc với Thủ Đô - Hà Nội, giữa các tỉnh đồng bằng, trung du và miền ngược. Vì thế nơi đây thường diễn ra sự giằng co rất quyết liệt giữa ta và địch. Cũng tại nơi đây, nhiều cơ sở cách mạng đã được nhen lên từ phong trào quần chúng và là nơi nuôi, giấu cán bộ Việt Minh hoạt động tỏng vùng địch hậu. Chỉ trong phạm vi bán kính chưa đầy 3 cây số, bọn lính Pháp và nguỵ quyền đã dựng nên gần 20 đồn, bốt kiên cố, riêng ở Núi Đôi có tới hàng chục bốt lớn, nhỏ. Và ngay trên mảnh đất Phù Linh, quân địch đã lập ra "vành đai trắng" nhằm bao vây, chia cắt, cô lập và tiêu diệt các cơ sở cách mạng của ta.

Vốn sinh trưởng trong một gia đình có bố làm xã đội phó, cậu là xã đội trưởng, các chú, các bác đều là cán bộ Việt Minh và bộ đội, nên Trần Thị Bắc đã sớm có ý thức giác ngộ cách mạng, nhất là cô được tận mắt chứng kiến bao cảnh càn quét, cướp bóc, đốt phát, bắn giết hết sức dã man của bọn lính Pháp và nguỵ quân ngay ở quê mình. Năm 1947, lúc đó mới 15 tuổi, nhưng Trần Thị Bắc đã tích cực tham gia hoạt động trong các phong trào đoàn thể thanh, thiếu niên. Cuối năm 1949, cô xin gia nhập đội du kích, làm nhiệm vụ giao thông liên lạc, tiếp tế và trực tiếp tham gia chống càn, bảo vệ nhân dân trong lúc đi tản cư. Sau đó cô được cử ra vùng tự do để theo học lớp y tá. Cũng trong thời gian này, Trần Thị Bắc gặp anh bộ đội tên là Trịnh Khanh, thuộc đại đội Trần Văn Tuấn (là nhân vật: "Anh đi bộ đội sao trên mũ..." trong bài thơ "Núi Đôi" của Vũ Cao). Sau vài lần gặp gỡ, cả hai mới biết rằng: họ đều là người cùng xã. Chàng trai ở thôn Vệ Linh, người chân núi Sóc, còn cô gái ở thôn Xuân Dục Đoài, dưới chân Núi Đôi. Tình yêu thương, đất nước và lòng căm thù giặc sâu sắc đã giúp họ cùng chung một chí hướng, vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà đơn vị và đoàn thể giao cho.

Cụ Nguyễn Thị Thân, 89 tuổi, là thím của Trần Thị Bắc, hiện còn sống tại Thôn Xuân Dục Đoài kể lại: Cô Bắc là con gái cả trong gia đình, nên sớm biết lo toan công việc, giúp đỡ bố mẹ. Cô vừa nhanh nhẹn, tháo vát lại đẹp người, đẹp nết, nên đi đâu và làm việc gì cũng đều chót lọt. Có một lần bà Nguyễn Thị Tèo (mẹ của Bắc bỗng dưng thấy cô sắm đôi quang thúng mới - bà hỏi: "Thế con sắm quang thúng để làm gì?" Bắc cười hồn nhiên và nói với mẹ: "Con tập đi buôn đấy mẹ ạ!". Ai ngờ chính đôi quang thúng đi buôn ấy, vừa là để che mắt kẻ địch và cũng là nơi cất giấu tài liệu của cô du kích.

Cũng từ năm 1951, người ta thường thấy ở thôn Đoài có một cô gái hoà lẫn vào dòng người đi buôn bán ở khắp mọi nơi. Với đôi quang thúng trên vai, cô đi khắp các hang cùng ngõ hẻm. Lúc thì ở trong vùng địch tạm chiếm, khi lại ra vùng tự do. Lúc bán muối, khi mua vản, bán rau... Những lần mua, bán hàng ấy, chính là lúc cô dò la, thu thập tình hình một cách có hiệu quả nhất, sau đó kịp thời chuyển những tin tức quan trọng ra vùng tự do. Bọn lính Tây và lính nguỵ trong vùng đều quá quen thuộc cô, nên không hề có chút nghi ngờ, chúng còn kháo nhau: "Một ngày mà không nhìn thấy em Bắc xinh đẹp một lần, thì buồn lắm". Trước sự mất cảnh giác của kẻ thù, Trần Thị Bắc lại càng thông minh, lanh lợi và khôn khéo. Những khi không đi buôn bán, lại thấy cô cầm liềm, quẩy đôi quang gánh lên tận đỉnh núi Đôi để cắt cỏ; và không có chỗ đồn, bốt nào của địch mà cô không biết. Với hình thức hoạt động công khai ấy, không những bọn địch không nghi ngờ, mà nhiều khi chúng còn vô tình cung cấp tin tức cho cô. Có những tên chỉ huy, khi vào làng càn quét, đã muốn lấy cô làm vợ bé. Lợi dụng tình thế ấy, Trần Thị Bắc đã linh hoạt chuyển ngay sang hình thức làm công tác binh, địch vận đối với những tên này. Bằng những lời lẽ khôn khéo, đầy tính thuyết phục của mình, Trần Thị Bắc đã thành công trong việc vận động một người cai trong hàng ngũ lĩnh nguỵ và một lính Pháp tự mang súng ra đầu hàng cách mạng. Nhờ có những thông tin rất quan trọng do Trần Thị Bắc cung cấp, nên một số cơ sở của ta không bị lộ. Đặc biệt là tránh được những tổn thất đối với số cán bộ của ta đang hoạt động ở trong vùng địch hậu.

Đầu năm 1954, Thực dân Pháp tăng cường phòng thủ tại Điện Biên Phủ, đồng thời đánh pháp quyết liệt, nhằm ngăn chặn sự chi viện của ta cho chiến trường Điện Biên. Để trấn an tinh thần bọn lính Pháp và nguỵ quân ở phía sau, chúng ráo riết tổ chức các cuộc vây bắt, lùng sục ở khắp nơi. Vào thời điểm này, Trần Thị Bắc cùng một lúc nhận được hai quyết định của trên, một là: về tỉnh để tiếp tục học lớp y tá, hai là: về làm công tác quân báo tại huyện đội Đa Phúc (nay là Sóc Sơn). Lý do: có thể cô đã bị lộ, nên cấp trên có ý định chuyển vị trí công tác của cô.

Ông Lê Văn Túc, 77 tuổi, là cán bộ lão thành cách mạng, thôn Xuân Dục Đoài, và là tổ trưởng quân báo của huyện lúc đó kể lại trận chiến đấu cuối cùng của nữ du kích Trần Thị Bắc: Hôm đó là 16/3/1954 (sau 3 ngày quân ta mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ). Vào lúc 22 giờ đêm, sau khi đã giúp Ban chỉ huy một đơn vị bố trí xong lực lượng, chuẩn bị cho trận mai phục quân địch ở khu vực chùa Táo. Trần Thị Bắc nhận nhiệm vụ đưa đoàn cán bộ khoảng 30 người, từ vùng địch hậu Lương Châu, ra vành đai trắng Phù Linh. Cô đi trước thăm dò, khi đến chân Núi Đôi, không may rơi vào ổ phục kích của địch. Chúng bắt cô và bịt miệng cô lại, với ý định sẽ phục chờ bắt nốt số người đi sau. Biết được âm mưu của địch, Bắc đã chống cự quyết liệt, bất thình lình cô lao vào tên quan Pháp, tìm ngay vào chỗ hiểm của hắn và dùng hết sức mình bóp chặt. Đòn đau bất ngờ làm tên quan Pháp kêu rống lên như con bò bị chọc tiết. Một tên lính lê dương đứng cạnh đó vội lôi Bắc ra và xả cả một băng đạn vào ngực cô. Thấy động, đoàn cán bộ của ta đã rút lui an toàn. Còn Trần Thị Bắc đã anh dũng hy sinh. Bất chấp đạn pháo của địch bắn tràn tới, anh em trong đội du kích đa lao vào đưa thi thể của Trần Thị Bắc về Cầu Cốn, Vệ Sơn để làm lễ truy điệu và mai táng cô tại đó.

Theo VOVnews.

Các bác hết thắc mắc về núi đôi nhé. :freddy:
 
cam_to_80

cam_to_80

Nghỉ mất sức !
31/3/04
588
7
18
45
Hà đông
Ngọn nến đung đưa đến ngẩn ngơ
Những giọt nóng trôi buồn bao nức nở
Thân nến cong như đang ngồi nhớ
Thiếu lửa bên mình, lạnh lẽo hóa bơ vơ !


:alcon:
 
NPT

NPT

Cao cấp
7/6/06
2,082
12
38
55
Rừng Tây Nguyên
Bài nào cũng hay cả !xin đưng xoá để xem lâu lâu tí nhé!
 
cam_to_80

cam_to_80

Nghỉ mất sức !
31/3/04
588
7
18
45
Hà đông
Đêm buồn lặng lẽ mỗi em thôi
Hạt sương xa mắt đắng bờ môi
Đêm nay rồi tiếp bao đêm nữa
......
Thôi thôi ... hãy nhớ một chữ RỒI
 
T

trêndòngsôngnhỏ

Guest
Đêm buồn bâng khuâng nhớ về ai
Thổn thức bên đèn gió hắt hiu
Bâng khuâng nhớ về người bạn cũ
Phương trời có nhớ đến ta chăng???
 
phuonghoanglua

phuonghoanglua

Guest
30/7/04
235
0
16
43
In legend
Truy cập trang
Sẽ còn lại một bài thơ dở dang
Em không muốn hoàn thành khổ cuối
Có thể vì dòng đời đang vội
Cũng có thể vì em đang khóc cho anh.


Ngủ ngon nhé anh trai của em!
 
A

AQ.

Guest
14/11/05
7
0
0
AQ chính truyện

[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tháng Sáu trời mưa[/FONT]
Nguyên Sa
Tháng sáu trời mưa, trời mưa không ngớt
Trời không mưa anh cứ lạy trời mưa
Anh lạy trời mưa phong toả đường về
Và đêm ơi xin cứ dài vô tận

Ðôi mắt em anh xin đừng lo ngại
Mười ngón tay đừng tà áo mân mê
Ðừng hỏi anh rằng: có phải đêm đã khuya
Sao lại sợ đêm khuya, sao lại e trời sáng...

Hãy dựa tóc vào vai cho thuyền ghé bến
Hãy nhìn nhau mà sưởi ấm trời mưa
Hãy gởi cho nhau từng hơi thở muà thu
Có gió heo may và nắng vàng rất nhẹ

Và hãy nói năng những lời vô nghĩa
Hãy cười bằng mắt, ngủ bằng vai
Hãy để môi rót rươu vào môi
Hãy cầm tay bằng ngón tay bấn loạn

Gió có lạnh hãy cầm tay cho chặt
Ðêm có khuya em hãy ngủ cho ngoan
Hãy biến cuộc đời bằng những tối tân hôn
Nếu em sợ thời gian dài vô tận

Tháng sáu trời mưa, em có nghe mưa xuống
Trời không mưa em có lạy trời mưa ?
Anh vẫn xin mưa phong toả đường về
Anh vẫn cầu mưa mặc dầu mây ảm đạm

Da em trắng anh chẳng cần ánh sáng
Tóc em mềm anh chẳng thiết mùa xuân
Trên cuộc đời sẽ chẳng có giai nhân
Vì anh gọi tên em là nhan sắc

Anh sẽ vuốt tóc em cho đêm khuya tròn giấc
Anh sẽ nâng tay em cho ngọc sát vào môi
Anh sẽ nói thầm như gió thoảng trên vai
Anh sẽ nhớ suốt đời mưa tháng sáu


.
 
cam_to_80

cam_to_80

Nghỉ mất sức !
31/3/04
588
7
18
45
Hà đông
Chọn Nợ

Lấy vợ khó lắm ai ơi
Lấy phải ngựa trời, mang họa vào thân
Từ đầu cho chí ngón chân
Phải nhìn cho kỹ phải tầm cho ra
Gái xấu như quỷ dạ xoa
Để gác chuồng gà, chồn cáo hãi kinh
Lấy người quá đẹp quá xinh
Kẻ ngắm, kẻ rình, kẻ tán lôi thôi
Lấy người lắm miệng lắm môi
Ăn uống no rồi kiếm chuyện cãi nhau
Nhâng nháo cái mặt mo cau
Chẳng biết xấu hổ còn đâu là người
Gặp ai cũng liếc cũng cười,
Tú bà là giống suốt đời lầu xanh
Bước chân nhún nhẩy đỏng đanh
Liếc mắt đưa tình là gái đa dâm
Hở hang ăn mặc khoe thân
Mặt dày, mày dạn bất cần tiếng tăm
Miệng rộng thêm mắt lá răm
Chính bà La Sát dám ăn thịt người
Mở miệng quen thói dạy đời
"Bình quyền, bình đẳng", ấy người bon chen
Ngồi lê, tán gẫu thành quen
Gái hư, thóc mách, hay xen chuyện người
Lưng dài công việc biếng lười
Cửa nhà dơ dáy đó thời gái hư
Gái nào xanh lả tương tư
Đa tình, yểu tướng kể như bỏ rồi
Gái nào phách lối khinh đời
Đầu chồng, đè xuống nó ngồi lên trên
Chằn tinh, Hà Bá không nên
Lại gần nó .. cắn chẳng điên cũng cuồng
Gái nào không biết thủ thường
Đua đòi ganh tỵ có đường chia ly
Gái nào ướt át lâm li
Ngoại tình lãng mạn, nó thì một cây
Phấn son dầy một thước tây
Áo quần lòe loẹt gái này bỏ đi
Khôn ngoan trong dạ khắc ghi
Vợ chẳng ra gì thiên hạ cười chê
Lấy người đần độn u mê
Còn hơn quỷ cái đi về khổ thay
Lấy vợ chớ vội liền tay
Thủng thỉnh đợi ngày kiếm được nàng tiên
Công dung ngôn hạnh đặt trên
Không có vợ hiền .. thà ở độc thân !
:wall:
 
V

vuongtran

Guest
30/3/06
0
0
0
vungtau
Ly rượu đắng hay lòng mình cay đắng
Giọt rượu buồn nhận chìm hết trong tôi
Hạnh phúc ngọt ngào hay nổi đơn côi
Anh là tất cả hay chẳng là gì cả......
 
IChiNoVa

IChiNoVa

Phu cà phê
2/4/05
134
4
18
Sòn Gài
www.xommuaban.vn
Vịnh cái điếu cày

Tuổi trẻ cười:

Quan, lính, nhà thơ đến thợ cày
Đôi lần dan díu đã mê say
Tròn trinh khóe miệng như mời gọi
Thon thả tấm thân đã sẵn bày

Nguyễn Đình Tự (Bắc Ninh):

Tay áp, mân mê nồng lửa ấm
Môi kề, rúc rích thoảng hương bay
Phút giây hoan lạc bao ngây ngất
Đêm sướng đằng đêm, ngày khoái ngày.
 
Sửa lần cuối:
cam_to_80

cam_to_80

Nghỉ mất sức !
31/3/04
588
7
18
45
Hà đông
Góp vui 1 bài !

Thuồn thuột thân dài tựa gốc cây
Vừa tay, vừa miệng một thân này
Tay vê nhúm thuốc cho xoăn tít
Kê chân mồi lửa khói cuộn bay
Dạng chân tay giữ khư khư điếu
Kề môi méo miệng rít lỗ này
Phì tàn, rướn cổ cho sâu sức
Xoành xoạch một hơi thế mới say !
 
cam_to_80

cam_to_80

Nghỉ mất sức !
31/3/04
588
7
18
45
Hà đông
Tặng GT...... !thể theo yêu cầu em xin sửa

Một mình một lối mãi u mê
Cô đơn chẳng thiết mái tóc thề
Đêm buồn chen giữa làn tóc rối
Chen giữa hồn tôi lạc lối về !

Tưởng ngỡ rằng qua cũng qua rồi
Má hồng phai nhạt, đắng bời môi
Giọt nước lung linh tràn khóe mắt
Giọt lệ sầu ! Hay máu trái tim tôi ?

Cam to hy vọng bạn sẽ vui tươi hơn ...vì cuộc sống còn nhiều niềm vui lắm ... nhỉ ...Ngày mai cam to sẽ có 1 bài sáng sủa hơn !
 
camchuong

camchuong

Sơ cấp
17/10/04
11
0
1
HT- HN
Có những nụ cười cứ ngỡ là thật tươi
Để đêm về lại thấy lòng đắng chát
Ôi cuộc sống cứ có hai mặt
Một mặt cười và một mặt đau thương

Có những nối đau chẳng thể nói bằng lời
Chẳng nói hết vì không thấy tri kỉ
Tạm thế thôi, hòa dòng người hối hả
Chiều buông và phố vẫn cứ đông

Em là riêng em những lúc một mình
Những khi buông hờ tay lên trán
Chạm một chút vào miền kí ức
Rụt tay về vì lại sợ đau!!!

Mà nghĩ thế thôi, chứ dòng đời hối hả
Tìm ngọt ngào qua kỉ niệm chưa phai
Em lại nhớ, sỏi đá cũng đam mê anh nhỉ
Huống chi ta là một con người.!

**********************

Cô gái và hoa cẩm chướng!
 
huemis

huemis

sonbt@eurowindow.biz
2/11/05
278
0
0
44
ha noi
trời lâu ngày không lên mạng thấy các pác làm thơ hay quá mà chạnh lòng nhớ thơ
 
cam_to_80

cam_to_80

Nghỉ mất sức !
31/3/04
588
7
18
45
Hà đông
người yêu tặng !

Ai bảo phải cưa mới đổ,
Tôi thấy tình yêu đến dễ làm sao
Nhớ thuở nào phũ phàng đẩy bạn gái xuống ao.
Mẹ bắt được, lôi vào đánh cho bê bết .
Cô gái ngoi lên nhìn tôi cười gần chết
Miệng ngoác tròn, lộ hết cả hàm răng
Tình vụt đến tựa như ánh sao băng
Tôi ngẩn ngơ rồi bật cười ha hả .......................
Xưa yêu em vì bộ răng giả
Nay yêu vì lại có cả răng sâu !

:drummer:
 

Xem nhiều