Hỏi đáp về Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN
Tô xin mạn phép góp bài hỏi đáp về Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN để các bác tiện nghiên cứu.
1. Về Điều 1
1) Hỏi: Tại sao Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCSXH) không phải thực hiện quy định này?
Đáp: NHCSXH thực hiện các nhiệm vụ cho vay theo các chương trình của Thủ tướng Chính phủ, phục vụ cho các mục đích xoá đói giảm nghèo, cho vay các đối tượng là người nghèo không vì mục tiêu lợi nhuận. Toàn bộ rủi ro trong hoạt động của NHCSXH được Ngân sách Nhà nước bảo đảm, do vậy NHCSXH không thuộc đối tượng điều chỉnh của QĐ 493.
2) Hỏi: Chi nhánh ngân hàng nước ngoài được áp dụng việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng của ngân hàng mẹ có tạo nên sự không đồng nhất trong việc áp dụng chuẩn mực quy định trong QĐ 493 hay không? Muốn được áp dụng chính sách của ngân hàng mẹ, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cần làm gì? Trong thời gian NHNN xem xét chấp thuận cho áp dụng việc phân loại, trích lập và sử dụng dự phòng của ngân hàng mẹ, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có phải thực hiện theo QĐ 493 hay không?
Đáp:
a. Cơ sở cho phép chi nhánh ngân hàng nước ngoài được áp dụng việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng của ngân hàng mẹ như sau:
- Tại nhiều nước trên thế giới, Ngân hàng Trung Ương hoặc cơ quan giám sát chỉ đưa ra những nguyên tắc chung, quy định mức sàn trong phân loại nợ và trích lập dự phòng. Căn cứ trên những nguyên tắc này, các ngân hàng cụ thể hoá các nguyên tắc để xây dựng chính sách riêng cho mình phù hợp với quy mô và tính chất hoạt động của từng ngân hàng. Do vậy, tại một nước, chính sách trích lập dự phòng của các ngân hàng khác nhau ở từng quốc gia cũng có nhiều điểm khác nhau dù vẫn phản ánh những nội dung của các nguyên tắc chung. Như ở Anh, Cơ quan giám sát (FSA) không đề ra chính sách chung này mà từng ngân hàng quy định chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về kế toán (IAS 39) với mục tiêu là phân loại nợ và trích lập dự phòng phản ánh đúng chất lượng tín dụng và khả năng tổn thất mà ngân hàng gặp phải trên cơ sở phân tích tình trạng lưu chuyển tiền mặt của khách hàng. Nhìn chung, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện những quy định tiên tiến về phân loại nợ, trích lập dự phòng cũng không khác biệt nhiều với những quy định tại QĐ 493 (Điều 7). Do vậy, không có sự không đồng nhất trong việc chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng theo ngân hàng mẹ và thực hiện theo các quy định tại QĐ 493.
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài không phải là pháp nhân, việc tạo điều kiện cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài áp dụng chính sách chung của ngân hàng mẹ sẽ tạo điều kiện hoạt động thuận lợi và giảm bớt các chi phí không cần thiết.
- Chỉ những ngân hàng nước ngoài có chính sách trích lập dự phòng ưu việt hơn, tiên tiến hơn các quy định tại QĐ 493 mới được NHNN xem xét cho phép áp dụng.
- Ngành ngân hàng Việt Nam, nhất là NHNN sẽ học hỏi được nhiều qua quá trình đánh giá và phân tích các chính sách về phân loại nợ và trích lập dự phòng của các ngân hàng nước ngoài, từ đó hướng tới xây dựng các quy định tiên tiến để áp dụng tại Việt Nam trong tương lai.
b. Để được phép thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng theo quy định của ngân hàng mẹ, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cần trình lên NHNN (thông qua Vụ Các Ngân hàng) các tài liệu sau đây (tiếng Anh và tiếng Việt):
- Chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng của ngân hàng mẹ.
- Quy định của nước nguyên xứ nơi ngân hàng mẹ có trụ sở chính về phân loại nợ và trích lập dự phòng (nếu có).
- Đánh giá việc phân loại nợ, trích lập dự phòng của ngân hàng mẹ so với QĐ 493 liên quan đến nghĩa vụ thuế, dự phòng chung và bảo đảm an toàn cho hoạt động của chi nhánh.
Trong thời gian NHNN xem xét, chấp thuận cho áp dụng việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng của ngân hàng mẹ, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro theo QĐ 493 và chỉ được áp dụng theo quy định của ngân hàng mẹ khi NHNN chấp thuận bằng văn bản.
2. Về Điều 2
1) Hỏi: Trích lập dự phòng được tính theo dư nợ gốc, vậy lãi thì xử lý như thế nào?
Đáp: Việc xử lý lãi của các khoản vay được thực hiện theo quy định của pháp luật về chế độ tài chính đối với các TCTD. Cụ thể, tại Thông tư 92/2000/BTC ngày 14/9/2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 166/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về Chế độ tài chính đối với các TCTD.
2) Hỏi: Các hình thức “Nợ” quy định trong quy chế đã đầy đủ chưa? Các định nghĩa về “Nợ quá hạn”, “Nợ xấu” có ý nghĩa gì?
Đáp: Tiết d Khoản 3 Điều 2 QĐ 493 đã nêu rõ các hình thức về nợ. Tuy nhiên, trong hoạt động ngân hàng, các hình thức mới của hoạt động tín dụng có thể được tạo ra, vì vậy, quy định cũng nêu rõ “Các hình thức tín dụng khác” để TCTD chủ động trong hoạt động và quy định của mình để khi có các hình thức tín dụng mới phát sinh thì có thể tiến hành việc phân loại nợ và trích lập dự phòng.
Các định nghĩa về “Nợ quá hạn”, “Nợ xấu” là để thống nhất thuật ngữ trong ngành ngân hàng. Mặt khác, đây là những khái niệm dựa trên thông lệ quốc tế để xác định chất lượng hoạt động cấp tín dụng của các TCTD.
3) Hỏi: “Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ” được thực hiện như thế nào? Tài sao QĐ 493 và QĐ 127 lại có những quy định khác nhau đối với các “Khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ”? TCTD cần chú ý gì tới các khoản nợ cơ cấu lại kỳ hạn trả nợ?
Đáp: Cơ cấu lại nợ là việc làm bình thường trong hoạt động tín dụng của các TCTD. Tuy nhiên, NHNN yêu cầu các TCTD phải thận trọng, nghiêm túc khi tiến hành cơ cấu lại các khoản nợ. TCTD chỉ cơ cấu lại nợ khi có đủ các dữ liệu, cơ sở để đánh giá khách hàng hoàn toàn có khả năng trả nợ đầy đủ gốc và lãi theo thời hạn cơ cấu lại. Các khoản nợ cơ cấu lại được phân loại vào nhóm 2 (không phải là Nợ xấu). Tuy nhiên, TCTD có các khoản nợ cơ cấu lại thuộc nhóm 2 chiếm quá 7% tổng dư nợ sẽ phải giám sát chặt chẽ tình hình chất lượng hoạt động tín dụng của mình. Đồng thời NHNN cũng sẽ lưu ý và theo dõi đặc biệt trong quá trình thanh tra giám sát.
Ngày 31/5/2005, Thống đốc NHNN ban hành Quyết định 783/2005/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung Khoản 6 Điều 1 của Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN, theo đó việc phân loại nợ thực hiện theo QĐ 493.
3. Về Điều 3
1) Hỏi: Điều 3 quy định “ít nhất mỗi quý một lần”, vậy thì bao nhiêu lần trong quý thì đủ? Tại sao Quý IV lại phải thực hiện trong thời hạn 15 ngày làm việc đầu tiên của tháng 12 và trích lập dự phòng rủi ro đến cuối ngày 30/11?
Đáp: Tùy theo khả năng của mình, TCTD thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và xử lý dự phòng rủi ro theo hàng quý hoặc hàng tháng, thậm chí hàng tuần.
Đối với Quý IV chỉ thực hiện trong 15 ngày đầu tiên của tháng 12 và tính đến cuối ngày 30/11 là để TCTD quyết toán năm, tính về thuế, lỗ, lãi, để chia cổ tức. Việc phân loại nợ và trích lập dự phòng phát sinh trong tháng 12 sẽ được thể hiện vào Quý I của năm kế tiếp.
2) Hỏi: Tại sao các khoản ngoại bảng như bảo lãnh, cam kết cho vay và chấp nhận thanh toán lại phải phân loại và trích lập dự phòng chung?
Đáp: Thông lệ quốc tế cho rằng những khoản ngoại bảng như bảo lãnh, cam kết cho vay và chấp nhận thanh toán là những khoản gần giống “Nợ” và dẫn đến nợ là hoàn toàn có thể xảy ra. Vì vậy, những khoản này tiềm ẩn những rủi ro như rủi ro tín dụng, do đó cần được theo dõi chặt chẽ và trích lập dự phòng chung như quy định tại Khoản 4 Điều 3 QĐ 493.
3) Hỏi: Các cam kết cho vay được hiểu thế nào? Hạn mức tín dụng, hiệp định tín dụng khung có phải phân loại vào nhóm 1 và trích dự phòng chung không? Trường hợp TCTD có đủ cơ sở xác định mức độ rủi ro của các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán thì có thể thực hiện việc phân loại nợ vào các nhóm theo mức độ rủi ro?
Đáp: Cam kết cho vay là thỏa thuận giữa TCTD và khách hàng mà theo đó TCTD cam kết sẽ cho khách hàng vay vào thời điểm hoặc trong khoảng thời gian tương lai. Cũng như các khoản bảo lãnh, chấp nhận thanh toán, cam kết cho vay được coi là các khoản thay thế tín dụng trực tiếp và có rủi ro tín dụng tương tự như các khoản nợ. Các cam kết cho vay được thỏa thuận dưới nhiều hình thức và mức độ trách nhiệm khác nhau, trong đó các cam kết cho vay phân loại vào nhóm 1 và trích lập dự phòng chung phải có các đặc điểm sau:
- Không hủy ngay trong bất cứ hoàn cảnh nào (cam kết vô điều kiện).
- Ấn định ngày cụ thể thực hiện cam kết.
Hiệp định tín dụng khung, hạn mức tín dụng, hạn mức thấu chi là các cam kết hủy ngang hoặc không hủy ngang có điều kiện. Do đó, các hiệp định tín dụng khung, hạn mức tín dụng, hạn mức thấu chi không phải phân loại vào nhóm 1 và trích lập dự phòng chung.
Trường hợp có đủ cơ sở xác định mức độ rủi ro của các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp thuận thanh toán thì TCTD thực hiện như sau:
- Khi chưa phát sinh số dư thì phân loại các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp thuận thanh toán vào nhóm 1 và trích lập dự phòng chung.
- Khi phát sinh số dư thì phân loại các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp thuận thanh toán vào các nhóm tương ứng với mức độ rủi ro đã xác định.
4) Hỏi: Đối với các khoản bảo lãnh, TCTD phân loại vào nhóm 1 theo giá trị của khoản bảo lãnh hay giá trị trừ đi khoản tiền khách hàng đã ký quỹ tại TCTD?
Đáp: Theo Khoản 4 Điều 3 QĐ 493, các khoản bảo lãnh phân loại vào nhóm 1 và trích dự phòng chung. Việc trích lập dự phòng chung tính trên giá trị của khoản bảo lãnh đó không trừ đi khoản tiền khách hàng đã ký quỹ tại TCTD.
5) Hỏi: Khoản 3 Điều 3 có quy định: “Đối với các khoản cho vay... thì TCTD không phải trích lập dự phòng rủi ro nhưng phải phân loại nợ theo quy định...” Như vậy, khi thể hiện các khoản vay này trên báo cáo mẫu 1A và 2A như thế nào cho hợp lý?
Đáp: Theo Khoản 3 Điều 3 QĐ 493, các khoản cho vay bằng nguồn vốn tài trợ, uỷ thác của Bên thứ ba mà Bên thứ ba cam kết chịu toàn bộ trách nhiệm xử lý rủi ro khi xảy ra và các khoản cho vay bằng nguồn vốn góp đồng tài trợ của TCTD khác nà TCTD không chịu bất cứ rủi ro nào thì TCTD không phải trích lập dự phòng rủi ro nhưng phải phân loại nợ theo quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định này nhằm đánh giá đúng tình hình tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng phục vụ cho công tác quản lý rủi ro tín dụng. Do đó, TCTD không cần báo cáo các khoản vay này trên mẫu 1A và 2A. Tuy nhiên, để phục vụ cho công tác quản lý rủi ro tín dụng, TCTD lập bảng riêng để theo dõi đối với các khoản vay này.