
Công văn số 6097/CTHN-TTHT ngày 16/2/2023 của Cục Thuế TP. Hà Nội về quyết toán thuế TNCN.
Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 19 Thông tư 80/2021/TT-BTC, trường hợp Công ty chi trả tiền lương cho người lao động của Chi nhánh ở các tỉnh thuộc diện phải phân bổ thuế TNCN cho từng tỉnh theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 19 thì số thuế TNCN được xác định cho từng tỉnh theo tháng hoặc quý tương ứng với kỳ khai thuế TNCN của Công ty và không phải xác định lại khi quyết toán thuế.
Đối với người lao động tự quyết toán thuế TNCN, hồ sơ khai quyết toán được nộp tại cơ quan thuế quản lý đơn vị nơi đã đăng ký giảm trừ gia cảnh (điểm b2 khoản 8 Điều 11 Nghị định 126/2020/NĐ-CP).
Trường hợp Công ty có người nước ngoài là cá nhân cư trú, phát sinh tiền lương được trả từ nước ngoài thì người đó phải tự nộp hồ sơ khai thuế TNCN cho cơ quan thuế nơi phát sinh công việc tại Việt Nam. Nếu nơi phát sinh công việc của người nước ngoài không ở tại Việt Nam thì nộp hồ sơ khai thuế đến cơ quan thuế nơi người này cư trú (điểm a.2 khoản 8 Điều 11 Nghị định 126/2020/NĐ-CP).
Nguồn: LuatVietnam.net
Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 19 Thông tư 80/2021/TT-BTC, trường hợp Công ty chi trả tiền lương cho người lao động của Chi nhánh ở các tỉnh thuộc diện phải phân bổ thuế TNCN cho từng tỉnh theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 19 thì số thuế TNCN được xác định cho từng tỉnh theo tháng hoặc quý tương ứng với kỳ khai thuế TNCN của Công ty và không phải xác định lại khi quyết toán thuế.
Đối với người lao động tự quyết toán thuế TNCN, hồ sơ khai quyết toán được nộp tại cơ quan thuế quản lý đơn vị nơi đã đăng ký giảm trừ gia cảnh (điểm b2 khoản 8 Điều 11 Nghị định 126/2020/NĐ-CP).
Trường hợp Công ty có người nước ngoài là cá nhân cư trú, phát sinh tiền lương được trả từ nước ngoài thì người đó phải tự nộp hồ sơ khai thuế TNCN cho cơ quan thuế nơi phát sinh công việc tại Việt Nam. Nếu nơi phát sinh công việc của người nước ngoài không ở tại Việt Nam thì nộp hồ sơ khai thuế đến cơ quan thuế nơi người này cư trú (điểm a.2 khoản 8 Điều 11 Nghị định 126/2020/NĐ-CP).
Nguồn: LuatVietnam.net