Hồ Xuân Hương
-Vũ Quần Phương-
Bà là nhà thơ độc đáo nhất trong nền thơ Việt Nam. Bà không giống ai và cũng chưa ai học được giọng thơ bà. Đến nay vẫn chưa tìm được năm sinh năm mất của bà, nhiều chi tiết về cuộc đời bà còn là giả thiết. Người ta suy ra từ nội dung thơ. Theo những suy luận ấy bà sống vào thời cuối Lê đầu Nguyễn, có thơ xướng họa với Chiêu Hổ (Phạm Đình Hổ 1768-1839), lại có thơ tặng Nguyễn Du (1765-1820). Quê gốc ở Quỳnh Đôi, Nghệ An, quê mẹ ở Hải Dương nhưng bà sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Bà đã đặt chân tới nhiều vùng non nước miền Bắc, miền Trung: Vĩnh Yên, Tuyên Quang, Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nội, Hải Dương, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An. Giao thông thời ấy khó khăn, lại là phụ nữ, đi rộng được như thế, phải là người lịch lãm lắm.
Thời Hồ Xuân Hương sống là thời chín rộ của những tài năng thơ Việt Nam, một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc bao trùm lên hầu hết các thi phẩm. Phận người phụ nữ trở thành trung tâm xót thương của nhiều hồn thi sĩ. Cô Kiều, cô cung nữ, người chinh phụ... đã thành những thân phận xót đau điển hình của Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm... Là một nhà thơ nữ, hơn thế lại phải gánh chịu nhiều buồn tủi của duyên phận, của tập tục xã hội, Hồ Xuân Hương thấm thía hơn ai hết nỗi khổ của giới mình. Đề tài thơ bà là chính cuộc đời bà. Cảm xúc thơ là cảm xúc sống thường trực của bà. Khi Nguyễn Du hai lần ngửa mặt than Đau đớn thay phận đàn bà thì bà bình thản nhưng kiên quyết hạ bệ rồi vùi xuống đất đen những thứ uy danh đặc quyền đặc lợi của đám mày râu, từ ông tướng bại trận, bại trận mà còn lập miếu ra oai, thờ cúng, cho đến đám sỹ tử lanh chanh khoe tài thơ phú. Bà lên giọng đàn chị vừa mắng vừa xoa đầu lũ ngọng đứng xem chuông ấy, Lại đây cho chị dạy làm thơ. Ngay đến đám người tự thị mình là quân tử, là anh hùng bà cũng lôi xuống cho các chú ngồi đúng chỗ của mình, dưới bóng cái quạt giấy chành ra ba góc: Mát mặt anh hùng khi tắt gió/ Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Mặt khác, bà đề cao bản lĩnh người phụ nữ Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa/ Mảnh tình một khối thiếp xin mang; ca ngợi tài năng người phụ nữ Ví đây đổi phận làm trai được/ Thì sự anh hùng há bấy nhiêu; ca ngợi phẩm chất sống cao ở họ Có phải duyên nhau thì thắm lại/ Đừng xanh như lá bạc như vôi. Hồ Xuân Hương biết lắm nỗi khao khát hạnh phúc của người đàn bà. Bà nguyền rủa cái kiếp lấy chồng chung. Đơn chiếc nhưng ẩn giấu một đòi hỏi cao, chấp nhận thách thức Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn/ Trơ cái hồng nhan với nước non. Đem cái hồng nhan, cái hồng nhan cụ thể chứ không phải phận hồng nhan khái niệm, mà đọ vào non nước. Hồ Xuân Hương là vậy. Một dáng đứng cao vời, lồng lộng từ trên nhìn xuống cái xã hội trọng nam khinh nữ, sa đọa, bần tiện bậc nhất, lại hay lên mặt thánh thần đạo đức giả, Hồ Xuân Hương biết tỏng cái tâm địa của nó, bà nói toẹt vào mặt Hiền nhân quân tử ai là chẳng và Chúa dấu vua yêu một cái này.
Thơ Hồ Xuân Hương ai đọc cũng thích. Nhưng có người thích mà lại ngại. Họ cho thơ bà tục. Thật ra cái gọi là tục ấy chỉ là một phương tiện để đấu tranh, một thứ vũ khí đánh gần lợi hại của bà. Tước đi cách nói sắc nhọn đa nghĩa táo bạo này, sức công phá của thơ bà giảm đi nhiều lắm, không còn vị Hồ Xuân Hương nữa. Đánh bọn đạo đức giả không gì lợi hại bằng cái vũ khí gọi là tục ấy. Bà có tài làm người ta liên tưởng cái nọ xọ cái kia nhưng cuối cùng là ha hả tiếng cười thanh thiên bạch nhật của sự thật, của lẽ phải, của đạo lý. Còn tục ư? Đố ai tìm được trong thơ Hồ Xuân Hương câu chữ nào tục. Bà nói ý nhị lắm. Bà phô diễn mọi phép biến hóa tài tình của tiếng Việt. Bà vận dụng ca dao tục ngữ để nói những điều mà ngôn ngữ thường không nói được Đầu sư há phải gì bà cốt/ Bá ngọ con ong bé cái lầm (ca dao: Bà cốt đánh trống long tong/ Nhảy lên nhảy xuống con ong đốt... gì). Bằng ngôn ngữ thanh đẹp bà gợi liên tưởng những hình ảnh thuộc bản năng sinh lý của con người. Từ bản năng, bà làm bật ra tiếng cười trí tuệ. Đấy là nét độc đáo của Hồ Xuân Hương. Hồn thơ bà có sự tự tin, thông minh, khỏe khoắn của trí tuệ nhân dân, của kho tàng truyện tiếu lâm. Hơn thế, xen kẽ giọng hài hước, bỡn cợt, là một giọng trữ tình thấm thía, thăm thẳm nỗi niềm Mõ thảm không khua mà cũng cốc/ Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om. Có câu thơ tả thực (bánh trôi nước) mà chan chứa xót thương khi vận vào nỗi người Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn/ Riêng em vẫn giữ tấm lòng son.
Cảm xúc thơ Hồ Xuân Hương mạnh nhanh, có khi như bạo liệt nhưng lại rất tinh tế. Trong cuộc tổng lộn trái những hành vi và nhân cách đạo đức giả bà có sự phân biệt mức độ để có liều lượng thơ thích hợp. Đám học trò dốt lại hay khoe mẽ khác với bọn sư hổ mang, bọn quan lại tham lam háo sắc. Đó là chỗ nhân tình của bà. Bà không đánh vào con người, không đánh vào nghề nghiệp, bà chỉ chế giễu hành vi, nhân cách của nó. Cái cười của bà hồn nhiên lắm, kẻ bị đánh cũng phải cười vì bà lọc được ra cái nghịch cảnh đáng cười. Cười từ hình ảnh Oản dâng trước mặt băm ba phẩm/ Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà. Cười vì cái tình thế Đi thì cũng dở, ở không xong của anh chàng đang tranh thủ "bồi dưỡng mắt". Có khi cười do ngôn ngữ, nói lóng, nói lái, tượng thanh, tượng hình. Xuân Hương có nhiều phép dựng câu thơ dậy, thả sức sống mới cho tạo vật Cỏ gà lún phún leo quanh mép/ Cá giếc le te lách giữa dòng. Lãng mạn thơ mộng mà lại thâm trầm hài hước: Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới/ Hai hàng chân ngọc duỗi song song. Nói như đùa mà đầy tính khuyên nhủ giáo dục: Chơi xuân có biết xuân chăng tá/ Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không (Chơi đu). Hồ Xuân Hương không lý sự, bà chỉ trình bày việc đời mà đã là việc đời thì lại luôn ẩn giấu một nụ cười tinh nghịch. Bà độ lượng, đầy cảm thông. Cảm thông với cô gái không mà có, cảm thông với cả quân tử hiền nhân Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo, cảm thông với người ta lúc trẻ trung. Tình cảm ấy xuất phát từ cái nhìn khỏe khoắn trong sáng và chan chứa lòng yêu cuộc đời cụ thể, trần tục, tươi rói như nó vốn có. Chất thơ Hồ Xuân Hương là tinh chất được lọc ra từ những bề bộn không có gì là "nên thơ" của đời. Chỉ những bản lĩnh thi sĩ lớn mới tìm thơ từ đời mộc như thế.
Hồ Xuân Hương sống cách chúng ta hai thế kỷ nhưng thơ bà không bị cũ, trái lại, người thời nay vẫn kinh ngạc vì sự mới mẻ của nó. Xuân Diệu tôn bà là bà chúa thơ Nôm. Bà là nhà thơ bậc nhất trong việc làm giàu công năng của tiếng Việt. Tiếng Việt thật hơn và cũng kỳ lạ hơn trong thơ bà. Bà cho thơ Đường một cách diễn đạt Việt, phát huy được hết khẩu ngữ, tục ngữ, nói lái... của tiếng Việt. Có những âm trong tiếng nói thường ít dùng, khó dùng, vậy mà vào thơ bà lại thành thoải mái, đầy ý vị (thơ tả các hang động). Có khi chỉ thanh điệu thôi cũng đủ gợi được hình ảnh Xỏ kẽ kèo tre đốt ngẳng ngheo (Quán Khánh).