CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ
1.1. Quan niệm chung về chính sách thuế và quản lý thuế
Sự ra đời của thuế là một tất yếu khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Để duy trì sự tồn tại của mình và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ về kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng... thì Nhà nước cần phải có những nguồn lực vật chất nhất định. Việc huy động các nguồn lực vật chất được Nhà nước thực hiện bằng nhiều cách khác nhau, trong đó có hình thức đóng góp bắt buộc thể hiện dưới dạng thuế.
Thuế là một bộ phận của cải của xã hội được tập trung vào quỹ NSNN, theo đó các thể nhân, pháp nhân phải chuyển giao bắt buộc một phần của cải của mình cho Nhà nước mà không gắn với bất kỳ sự ràng buộc nào về sự hoàn trả lợi ích tương quan với số thuế đã nộp nhằm trang trải các chi phí duy trì sự tồn tại, hoạt động của bộ máy nhà nước và chi phí công cộng đem lại lợi ích chung cho cộng đồng.
Để thu được thuế, Nhà nước đã thể chế hoá yêu cầu bắt buộc đóng góp nguồn lực tài chính cho NSNN đối với các thể nhân, pháp nhân. Nhà nước quy định nguyên tắc chung về nghĩa vụ nộp thuế của các thể nhân, pháp nhân trong Hiến pháp - văn bản pháp lý cao nhất của Nhà nước. Đồng thời để thực hiện nguyên tắc pháp lý chung đó, Nhà nước đã ban hành hệ thống các văn bản pháp luật về thuế để điều tiết các khoản thu phát sinh trong quá trình vận động của các quan hệ kinh tế xã hội. Hệ thống chính sách thuế của Việt Nam hiện nay bao gồm: Thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế tài nguyên, thuế nhà đất, thuế môn bài, …
Đối với từng sắc thuế nêu trên, pháp luật quy định hoàn cảnh phát sinh nghĩa vụ thuế, cơ sở chịu thuế, cách xác định nghĩa vụ thuế, trường hợp được ưu đãi thuế, miễn thuế, giảm thuế và ai là người phải nộp thuế vào Ngân sách Nhà nước. Các quy định này phản ánh nội dung, bản chất, chức năng của từng sắc thuế, được gọi chung là quy định về chính sách thuế.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định cách thức người nộp thuế thực hiện các thủ tục hành chính để chuyển giao nguồn lực tài chính vào quỹ NSNN, các chế tài xử lý trong trường hợp không chấp hành nghĩa vụ thuế; trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình chấp hành chấp hành chính sách thuế… Các quy định này thuộc phạm vi quản lý thuế.
Quản lý thuế là hoạt động tổ chức, điều hành và giám sát của cơ quan thuế nhằm đảm bảo người nộp thuế chấp hành nghĩa vụ nộp thuế vào Ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Quản lý thuế có vai trò bảo đảm cho chính sách thuế được thực thi nghiêm chỉnh trong thực tiễn đời sống kinh tế xã hội. Chính sách thuế thường được thiết kế nhằm thực hiện những chức năng cao cả của thuế như điều tiết kinh tế vĩ mô phục vụ mục tiêu tăng trưởng của đất nước hay phân phối thu nhập nhằm bảo đảm sự công bằng giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Tuy nhiên, các mục tiêu này chỉ được hiện thực hoá nếu như công tác quản lý thuế thực hiện điều hành, giám sát để ai là người nộp thuế thì phải nộp thuế và người nộp thuế phải nộp đúng, nộp đủ và nộp đúng hạn số thuế phải nộp vào NSNN. Vì vậy, có thể khẳng định Quản lý thuế có vai trò quyết định cho sự thành công của từng chính sách thuế.
1.2. Quá trình ra đời Luật quản lý thuế
Hệ thống pháp luật thuế Việt nam được hình thành và hoàn chỉnh cơ bản trong thời kỳ đổi mới của đất nước. Trải qua hai lần cải cách, hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, hiện nay chúng ta đã có hệ thống chính sách thuế tương đối đồng bộ, có phạm vi điều chỉnh toàn diện đến các quan hệ kinh tế xã hội, bao gồm các sắc thuế thuộc nhóm thuế tiêu dùng, thuế thu nhập và thuế tài sản.
Mỗi sắc thuế được Nhà nước ban hành thông qua các Luật hoặc Pháp lệnh và các văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành. Trong thời gian trước năm 2007, quy định pháp luật của từng sắc thuế bao gồm cả quy định về chính sách thuế và quy định về quản lý thuế. Các quy định này đã phát huy được vai trò pháp lý, bảo đảm các khoản thuế được huy động kịp thời vào NSNN. Các quy trình nghiệp vụ quản lý thuế từng bước được kiện toàn, bộ máy quản lý thuế từng bước được củng cố. Nhờ đó, số thu từ thuế, phí và lệ phí hàng năm của ngành Thuế luôn hoàn thành vượt mức dự toán Nhà nước giao.
Tuy nhiên, công tác quản lý thuế còn bộc lộ một số tồn tại như: Tính pháp lý của các quy định về quản lý thuế chưa cao, dẫn đến hạn chế trong việc tuân thủ pháp luật thuế; các quy định về quản lý thuế còn phân tán tại nhiều văn bản pháp luật, một số nội dung còn chưa thống nhất gây khó khăn cho người nộp thuế và cơ quan thuế trong việc chấp hành pháp luật thuế. Bên cạnh đó, quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể tham gia quản lý thuế chưa được quy định đầy đủ, rõ ràng, ảnh hưởng đến hiệu quả của việc thực hiện công tác quản lý thuế; thủ tục hành chính thuế ở nhiều khâu còn rườm rà, nặng tính hình thức gây khó khăn cho người nộp thuế; chưa xây dựng được cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác cũng như quy định trách nhiệm của các cơ quan và cá nhân này với cơ quan Thuế trong công tác quản lý thu thuế nhằm tăng cường việc phòng chống, xử lý các hành vi vi phạm phát luật thuế, chống thất thu thuế.
Thực hiện chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 đã được Chính phủ phê duyệt, cùng với việc hoàn thiện và xây dựng mới các luật về chính sách thuế, Luật Quản lý thuế đã được ban hành để khắc phục các hạn chế trên, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Luật Quản lý thuế được Quốc hội khoá XI thông qua tại kỳ họp thứ 10 ngày 22/11/2006, có hiệu lực thi hành từ 1/7/2007. Việc ban hành Luật Quản lý thuế nhằm đáp ứng các mục tiêu sau:
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế; tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế nộp đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào Ngân sách Nhà nước và cơ quan quản lý thuế thu đúng, thu đủ tiền thuế.
- Quy định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế và của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc quản lý thuế.
- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, minh bạch, dễ thực hiện, tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của Nhà nước, cộng đồng xã hội trong việc thực hiện quản lý thuế.
Về tổng thể, Luật Quản lý thuế thiết lập khung pháp lý chung, áp dụng thống nhất trong quá trình thực thi tất cả các chính sách thuế, khắc phục được tình trạng chia cắt tách biệt về phương thức quản lý giữa các loại thuế, tạo nền tảng cho việc áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp.