bạn cho cái tliệu này lên đây đi, xem ae có "ăn cắp" đc tí nào trong đó ko, lưu hành nội bộ cơ ah. khiếp nhỉ
hj, mình post lên nha, nếu năm nay mà thi vào câu này thì hay nhỉ
cả nhà cùng vui
Các nước có thể sử dụng nhiều hình thức ưu đãi thuế khác nhau với mức độ ưu đãi khác nhau tuỳ theo mục tiêu cần thu hút đầu tư của mình, tuy nhiên các dạng ưu đãi thuế cơ bản thường gồm:
3.5.1 Miễn giảm thuế có thời hạn
Ưu đãi thuế có các hình thức cụ thể, đó là: miễn, giảm tín dụng thuế đầu tư, mức miễn trừ (mức tối thiểu không phải chịu thuế)..v..v. Chế độ ưu đãi về thuế được thể hiện rõ nhất thông qua các quy định miễn giảm thuế. Miễn giảm thuế là số tiền thuế mà người nộp thuế phải nộp cho Nhà nước, song vì những lý do kinh tế, xã hội mà Nhà nước quy định cho phép không phải nộp toàn bộ (miễn thuế ) hay chỉ phải nộp một phần (giảm thuế) trong số thuế phải nộp.
Miễn giảm thuế có thời hạn là không đánh thuế hoặc giảm thuế thu nhập đối với các dự án đầu tư đủ tiêu chuẩn trong một thời gian nhất định. Các thời kỳ doanh nghiệp được miễn giảm thuế thường được gọi là các kỳ nghỉ về thuế.
Đây là hình thức ưu đãi đầu tư phổ biến tại các nước đang phát triển. Ở những quốc gia khác nhau, chính sách miễn giảm thuế rất khác nhau cả về thời hạn được miễn giảm và hình thức miễn giảm. Thời hạn miễn giảm ngắn có thể là một năm, dài hơn có thể kéo dai tới 20 năm dưới hình thức cho miễn toàn bộ thuế lợi tức ( thậm chí tất cả các loại thuế phải nộp) hoặc dưới hình thức giảm mức thuế suất…
Thời điểm miễn giảm thuế có thể là: Ngày đăng ký thành lập công ty, ngày bắt đầu sản xuất kinh doanh, ngày công ty bắt đầu có thu nhập, năm đầu tiên công ty có lãi… Ở nhiều nước thời điểm miễn giảm ít nhất là một năm hay lâu hơn trước khi một dự án đầu tư nước ngoài thực sự bắt đầu kinh doanh và thường là khoảng 5 năm hay dài hơn trước khi công ty có lợi tức. Miễn giảm thuế có mối liên quan chặt chẽ với các quy định về khấu hao và giảm lỗ. Trong một số trường hợp, việc miễn giảm có thời hạn có thể không đem lại lợi ích cho các nhà đầu tư.
Phần lớn các nghiên cứu đều cho thấy, miễn giảm thuế với thời hạn ngắn có ít tác dụng trong việc thu hút đầu tư. Thời hạn miễn giảm dài hơn có tác dụng và sức hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư, song đối với nước nhận đầu tư nó làm tăng chi phí hay giảm số thu thuế do giảm thuế. Hơn nữa, miễn giảm thuế tạo ra nhiều khe hở cho việc luồn lách, trốn thuế và lạm dụng như tạo cơ hội cho tránh thuế vì các doanh nghiệp bị đánh thuế có thể sử dụng quan hệ kinh tế với doanh nghiệp được miễn thuế để chuyển lợi nhuận của mình sang cho doanh nghiệp miễn thuế thông qua chuyển giá hay bị các nhà đầu tư lơi dụng thông qua việc tái tạo đầu tư mới từ đầu tư cũ..
3.5.2 Thuế suất giảm: áp dụng mức thuế suất thấp hơn thuế suất chuẩn đối với các dự án đầu tư đạt đủ điều kiện.
3.5.3 Trừ chi phí đầu tư hoặc khấu trừ thuế; trợ cấp đầu tư và khấu hao nhanh
Qui định tỷ lệ phần trăm của chi phí đầu tư ban đầu (ví dụ: chi phí nhà xưởng, thiết bị) sẽ được trừ ngay trong chi phí của thời kỳ hiện hành, ngoài mức khấu hao thông thường (biện pháp trừ chi phí) hoặc qui định tỷ lệ phần trăm chi phí đầu tư sẽ được trừ vào nghĩa vụ thuế thu nhập công ty (biện pháp khấu trừ thuế). Mục tiêu của loại ưu đãi này là nhằm khuyến khích việc đầu tư đối với các nhà xưởng và thiết bị trong những ngành cần tập trung.
- Khấu hao nhanh: Là hình thức chi phí mua tài sản được khấu hao với tốc độ nhanh hơn so với mức khấu hao được cho phép theo lịch trình khấu hao thông thường. Nói cách khác nó cho phép trừ chi phí đầu tư trong những năm đầu tiên nhanh hơn so với năm sau.
- Trợ cấp đầu tư: nhà nước chi từ ngân sách các khoản trợ cấp cho đầu tư, kể cả những khoản đầu tư không mang lại lợi nhuận.
Xét về mặt hiệu quả, các quy định về khấu trừ đầu tư hay trợ cấp đầu tư có thể tốt hơn so với miễn giảm thuế có thời hạn. Chi phí của các quy định này có thể tính toán được và chi phí đó tương quan với số vốn đầu tư. Sự ưu đãi có thể áp dụng đối với tất cả các hình thức đầu tư vốn hoặc chỉ có thể giới hạn đối với một số loại hình nhất định như máy móc, thiết bị công nghệ thông tiên tiến, hoặc đầu tư nghiên cứu – phát triển. Còn đối với việc miễn giảm thuế có thời hạn thì lợi ích dành cho nhà đầu tư một phần phụ thuộc vào mối quan hệ giữa quy định về ưu đãi với các nguyên tắc thông thường về khấu hao và giảm lỗ. Trong trường hợp khi phần lớn các khoản đầu tư ban đầu có thể không mang lại lợi tức trong những năm đầu, cộng với việc khấu hao nhanh sẽ không mang lại lợi ích cho những nhà đầu tư mà ngược lại có thể làm tăng thêm gánh nặng về thuế. Trong những trường hợp đó, việc thực hiện khấu trừ đầu tư trong những năm đó sẽ thực sự trở nên hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
3.5.4 Trợ cấp tái đầu tư
Trợ cấp tái đầu tư thực chất là được miễn thuế lợi tức thông qua việc cho phép số lợi tức dùng để tái đầu tư, hay một phần của nó được trừ khỏi lợi tức chịu thuế khi tính thuế, hoặc bằng cách cho các cổ đông được hoàn thuế đã thanh toán với một tỷ lệ nhất định của tổng số lợi tức tái đầu tư. Vốn đầu tư có thể được đầu tư vào chính công ty đã tạo nên lợi tức đó hay đầu tư vào một số ngành nhất định nào đó.
3.5.5 Giảm thuế khấu trừ tại nguồn
Việc giảm thuế khấu trừ tại nguồn là việc sử dụng mức thuế suất bằng không hay cắt giảm mức thuế khấu trừ tại nguồn nhằm thu hút đầu tư nước ngoài hay khuyến khích một số dự án về chuyển giao công nghệ. Chẳng hạn như một khoản lợi tức tiền vay được hưởng từ mức thuế suất ưu đãi, miễn thuế lợi tức cho các khoản cổ tức trả cho cổ đông người nước ngoài. Hình thức này đã được sử dụng ở nhiều nước.
3.5.6 Các khoản giảm trừ đặc biệt:
Khoản giảm trừ đặc biệt là khấu trừ gấp đôi cho một số loại chi phí nhất định. Đây là hình thức ưu đãi phổ biến ở Singapo và Malaysia. Hai quốc gia này cho phép khấu trừ gấp đôi số chi phí được phép khấu trừ đối với một loạt các chi phí được coi là thúc đẩy xuất khẩu hay đẩy mạnh việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng nước ngoài. Malaysia còn cho khấu trừ gấp đôi các chi phí liên quan đến du lịch và đào tạo nhân công.
3.5.7 Giảm thuế thu nhập cá nhân và bảo hiểm xã hội
Nhiều nước sử dụng biện pháp này như một hình thức ưu đãi đặc biệt cho những người điều hành hay công nhân nước ngoài nhằm đảm bảo sự công bằng trong điều tiết thuế. Việc giảm thuế đối với tiền lương và đóng góp bảo hiểm xã hội thường được sử dụng để thu hút đầu tư vào những vùng có tỷ lệ thất nghiệp cao hay để khai thác một số lực lượng lao động nhất định.
3.5.8 Miễn giảm thuế tài sản
Miễn giảm thuế tài sản là một hình thức phổ biến và có tác dụng lớn đối với việc ưu đãi đầu tư. Theo quan điểm của Nhà nước thì việc miễn giảm thuế tài sản có lợi thế là chi phí của việc miễn giảm có thể tính toán được. Còn về phía các nhà đầu tư thì cho rằng hình thức này sẽ tạo ta lợi tức ngay lập tức và có tính khả thi ngay cả khi không có lợi tức để đánh thuế. Hình thức ưu đãi này nói chung thường được thực hiện trong một thời gian nhất định. Nó giống như việc cấp tiền trong vòng một số năm và đặc biệt thích hợp với việc thức đẩy các khoản đầu tư mới. Các ưu đãi kiểu này thường được áp dụng như một bộ phận của chính sách phát triển vùng nói chung và nó thường do chính quyền địa phương, chính quyền vùng quy định hơn là chính quyền trung ương.
3.5.9 Giảm thuế nhập khẩu và nghĩa vụ hải quan
Giảm thuế nhập khẩu và nghĩa vụ hải quan là một trong những hình thức có sự khuyến khích cao nhất trong các hình thức ưu đãi đầu tư, đặc biệt là đối với hàng hoá và tài sản thực hiện quá trình đầu tư. Hình thức ưu đãi này có chung đặc điểm với miễn giảm thuế tài sản là không phụ thuộc vào khả năng có lợi tức. Nó là một khoản tiền lớn có trước và tạo ra sự tiết kiệm ngay từ đầu cho các nhà đầu tư. Miễn thuế quan thường được áp dụng đối với thiết bị nhập khẩu, đôi khi đối với toàn bộ thiết bị vốn, trong một vài trường hợp nó được áp dụng đối với một số nhất định các loại máy móc, thiết bị công nghệ tiến bộ kỹ thuật.Ở một số nước, một nhà đầu tư khi góp vốn điều lệ vào một công ty mới thành lập, được miễn thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng. Tuy nhiên, sự miễn thuế trong những trường hợp như vậy chỉ được thực hiện cho một số nhà đầu tư nhất định, nên có thể gây nên sự bóp méo trong cạnh tranh và trái với những nguyên tắc thương mại quốc tế. Việc miễn giảm thuế như trên không chỉ là thuế nhập khẩu mà còn bao gồm các loại thuế khác thu ở khâu nhập khẩu như thuế giá trị gia tăng.
3.5.10 Quy định khởi điểm thu thuế và mức miễn thu: thể hiện sự chiếu cố những người có thu nhập thấp, có gia cảnh khó khăn…
3.5.11 Các đặc khu kinh tế
Các đặc khu kinh tế bao gồm nhiều hình thức và quy mô khác nhau, phục vụ cho những mục đích nhất định: Khu miễn thuế xuất nhập khẩu, khu kinh tế tự do, khu thương mại tự do, khu thương mại quốc tế và đặc khu kinh tế. Hiện nay, có khoảng hơn 800 đặc khu kinh tế đang tồn tại ở trên 100 nước khác nhau trên thế giới, cung cấp việc làm cho hơn 5 triệu lao động và đóng góp một phần quan trọng trong tổng kim ngạch thương mại thế giới. Một đặc điểm nổi bật của các đặc khu kinh tế là các quy định xử lý đặc biệt về miễn thuế và nghĩa vụ hải quan mà không được áp dụng ở các khu vực bên ngoài. Đặc điểm cơ bản của đặc khu kinh tế là được hưởng miễn hay giảm các loại thuế khác mà sự miễn giảm đó nhìn chung không được thực hiện ở các khu vực ngoài vùng. Các đặc khu kinh tế rất khác nhau về diện tích và mục đích thành lập. Về bản chất các khu này là các khu công nghiệp mà các nhà đầu tư được hưởng các đặc lợi; trong đó có đặc lợi rất lớn về thuế.
3.5.12 Các vùng miễn thuế hải quan
Đặc điểm cơ bản của các hình thức khác nhau của vùng miễn thuế hải quan là chúng được hưởng sự miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Mặc dù một vùng miễn thuế hải quan được tạo nên từ một phần của lãnh thổ địa lý và vật chất của một quốc gia nhưng nó lại không tạo nên một phần lãnh thổ của quốc gia đó với mục đích hải quan. Trong thực tế vùng đó được đối xử như lãnh thổ của một quốc gia khác. Hàng hoá được đưa vào vùng từ nước ngoài không bị coi là nhập khẩu vào quốc gia của vùng đó và hàng hoá đưa từ vùng vào quốc gia đó lại coi như nhập khẩu. Trái lại, hàng hoá được coi là xuất khẩu khi đưa từ nước chủ nhà vào vùng và không được xem là xuất khẩu từ vùng đó vì nó nằm ngoài phạm vi hải quan. Một số vùng miễn thuế hải quan bị hạn chế trong hoạt động thương mại, trong khi các vùng khác được thành lập như một vùng sản xuất hay gia công hàng hoá.